Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2011

Bài 14: Mathiơ 5.8: "PHƯỚC CHO NHỮNG KẺ CÓ LÒNG TRONG SẠCH"



MATHIƠ – VUA CÁC VUA
SỨ ĐIỆP CỦA NHÀ VUA
PHƯỚC CHO 
NHỮNG KẺ 
CÓ LÒNG TRONG SẠCH
Mathiơ 5.8
1. Tuần vừa qua, thiếu nhi trong nước đã mặc trang phục của chúng và đến trước cửa nhà chúng tôi với sứ điệp: “Trick or Treat” (Câu nói của trẻ em khi gọi cửa các nhà trong dịp lễ Halowe’wn để xin kẹo… và dọa phá phách nếu không cho). Hầu hết chúng ta đều ăn kẹo theo kiểu ăn lấy ăn để rồi vui vẻ gửi sang cho nhà lân cận. Công việc của tôi là lấy thứ kẹo nhỏ “Pocahontas”“Belle the Beauty” đi một vòng mang cho các thành viên trong gia đình vì tánh thích ăn của họ. Môt thành viên trong gia đình đã làm việc trong nhiều năm trời trong khu gian hàng thiếu nhi nói cho tôi biết có mấy lần cô ta gặp mấy em thiếu nhi trong Hội thánh đến nói cho cô ta biết chúng đã đến nhà cô vào dịp Lễ. Cô ta nói: “Với loại mặt nạ nầy, tôi không thể nói chúng là ai!”
2. Hầu hết chúng ta đều mang mặt nạ. Chúng ta chỉ không mang chúng vì “trick or treat”, chúng ta mang chúng mỗi ngày trong đời sống chúng ta. Chúng ta mang một chiếc mặt nạ khi chúng ta đi đến sở làm, song lại cởi nó ra khi chúng ta quay trở về nhà. Chúng ta mang lấy chiếc mặt nạ khác khi có bạn bè đến nhà chơi, nhưng sau khi họ ra về rồi, chiếc mặt nạ được tháo ra. Chúng ta có chiếc mặt nạ khác khi đi nhà thờ, nhưng khi chúng ta bước vào xe, chúng ta tháo nó ra cho đến buổi thờ phượng kế tiếp. Có một bức hoạ mà vợ tôi đã cắt lấy cách đây nhiều năm cho thấy một vị Mục sư đang trò chuyện với vợ của ông ta. Bà ấy nói: “Ngày nay chúng ta hãy làm một việc khác đi. Tại sao anh không dễ mến ở nhà và gắt gỏng ở nhà thờ!”
3. Chúng ta mang nhiều chiếc mặt nạ để người ta không thể nói chúng ta thực sự là ai. Chúng ta không muốn người khác biết rõ chúng ta. Chúng ta thường đánh lừa những người làm công, bạn bè, tín hữu và thậm chí cả gia đình chúng ta nữa. Tuy nhiên, chúng ta chưa bao giờ đánh lừa được Chúa. Ngài nhìn thấu qua các mặt nạ của chúng ta. Lois K. Blanchard đã viết một bài thơ rất hay:
Nếu Chúa Jêsus đến nhà bạn ở một ngày hay hai ngày
Nếu Ngài đến cách bất ngờ,
Tôi lấy làm lạ không biết bạn sẽ làm gì?
Tôi biết bạn sẽ dành căn phòng đẹp nhất
Cho Vị Khách danh dự ấy,
Cùng mọi thức ăn bạn dọn cho Ngài
Sẽ là thứ ngon nhất.
Và bạn sẽ đoan chắc với Ngài
Bạn rất hân hạnh được tiếp đón Ngài
Được phụcc vụ Ngài trong ngôi nhà của bạn
Là niềm vui khôn tả;
Thế nhưng khi bạn trông thấy Ngài đang đứng ở đấy,
Bạn có ra tận cửa,
Với đôi vòng tay rộng mở hoan nghinh Ngài
Là Khách của bạn đến từ Trời không?
Hoặc bạn sẽ thay đổi một vài thứ
Trước khi bạn mời Ngài vào?
Hay giấu đi vài tờ báo rồi trưng dẫn cuốn Kinh Thánh ra?
Liệu gia đình có tiếp tục nói năng bình thường chăng?
Và bạn khó mà gán cho từng bữa ăn là giàu ơn?
Bạn vui vẻ không
Khi có Ngài là thiết hữu thân cận nhất?
Hoặc bạn có hy vọng bạn bè sẽ ở lại
Khi cuộc viếng thăm của Ngài kết thúc?
Bạn có vui vẻ khi có Ngài ở với cho tới đời đời,
Miên viễn không?
Hay bạn thở dài khoan khoái khi Ngài ra về?
Chắc bạn lúng túng ít nhiều
Một khi Chúa Jêsus đến nhà riêng của bạn
Để ở với bạn trong một lúc”
.
4. Trong Tám Phước Lành nầy, ở đây Chúa Jêsus đang nói tới “người có lòng trong sạch”, Ngài đang nói tới việc lột bỏ đi mặt nạ, nói tới việc phải học sống chơn thật, đáng tin trước mặt cả con người lẫn Đức Chúa Trời.
I. CÓ LÒNG TRONG SẠCH CÓ Ý NGHĨA NHƯ THẾ NÀO?A. Chữ “lòng” là hình bóng của người bề trong.
1. “Lòng” ra từ chữ Hy lạp kardia từ đó chúng ta có chữ “tim” (cardiac) cùng các chữ tương tự khác.
2. Nhiều chữ tương tự đã được sử dụng trong nhiều nền văn hoá đề cập tới người bề trong, ngai của mọi động lực và các thái độ, trung tâm của nhân cách. Trong một số xã hội, họ dùng “quả cật” hay “ruột”. Hãy tưởng tượng xem câu hát: “Tôi để quả cật lại ở San Francisco” hay “Trong khúc ruột sâu sắc ở Texas”.
3. Trong Kinh Thánh, tấm lòng tiêu biểu cho những tình cảm và cảm xúc sâu sắc nhất, nhưng nó cũng tiêu biểu cho lý trí và ý chí nữa. Châm ngôn 23.7 chép: “Vì hắn tưởng trong lòng thể nào, thì hắn quả thể ấy”. Trong Mathiơ 9.4, Chúa Jêsus hỏi các thầy thông giáo: “Nhân sao trong lòng các ngươi có ác tưởng làm vậy?”
4. Đức Chúa Trời luôn luôn quan tâm tới phần bề trong của con người, “tấm lòng” hơn bất cứ thứ chi khác.
a. Châm ngôn 4.23 chép: “Khá cẩn thận giữ tấm lòng của con hơn hết, vì các nguồn sự sống do nơi nó mà ra”
b. Đức Chúa Trời sai Nước Lụt đến vì Ngài “thấy sự hung ác của loài người trên mặt đất rất nhiều, và các ý tưởng của lòng họ chỉ là xấu luôn” (Sáng thế ký 6.5).
c. Sau khi phạm tội tà dâm, Đavít đã cầu nguyện: “Xin hãy dựng nên trong tôi một lòng trong sạch, và làm cho mới lại trong tôi một thần linh ngay thẳng” (Thi thiên 51.10).
d. Tác giả Thi thiên – Asáp đã viết: “Đức Chúa Trời thật đãi Ysơraên cách tốt lành, tức là những người có lòng trong sạch” (Thi thiên 73.1).
e. Giêrêmi 17.9-10 chép: “Lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất là xấu xa: ai có thể biết được? Ta, Đức Giê-hô-va, dò xét trong trí, thử nghiệm trong lòng, báo cho mỗi người tùy đường họ đi, tùy kết quả của việc họ làm”.
f. Chúa Jêsus phán trong Mathiơ 15.19-20: “Vì từ nơi lòng mà ra những ác tưởng, những tội giết người, tà dâm, dâm dục, trộm cướp, làm chứng dối, và lộng ngôn. Ay đó là những điều làm dơ dáy người; song sự ăn mà không rửa tay chẳng làm dơ dáy người đâu”.
B. Từ ngữ “trong sạch” là từ đồng nghĩa với thánh khiết.
1. “Trong sạch” dịch từ chữ katharos từ đó chúng ta có “catharsia”. “Catharsia” là từ ngữ được dùng trong môn tâm lý học và trong việc mưu luận, có ý nói tới một sự làm sạch tâm trí hay tình cảm. Từ ngữ Hy lạp có nghĩa là “làm sạch bằng cách thanh tẩy không còn bụi bặm, vết uế, hay sự ô nhiễm”.
2. Trong tiếng Hy lạp cổ điển, từ ngữ thường được sử dụng để mô tả các thứ kim loại đã được luyện lọc rồi trong lửa cho tới chừng chúng được “sạch ròng” không còn cáu cặn nữa.
3. Chúa Jêsus muốn chúng ta phải có tấm lòng “trong sạch”, hay thanh sạch, không đeo mặt nạ.
C. Có ít nhất sáu loại thanh sạch trong Lời của Đức Chúa Trời.
1. Thứ nhất, có sự thanh sạch THIÊNG LIÊNG. Đây là loại thanh sạch hay thánh khiết duy nhất thuộc về Đức Chúa Trời. Đó là loại thanh sạch bên trong nơi bổn tánh của Ngài. Sự trong sạch hay thánh khiết đối với Đức Chúa Trời giống như ánh sáng đối với mặt trời hoặc tình trạng ẩm ướt đối với nước vậy.
2. Thứ hai, có sự trong sạch được TẠO RA. Đây là sự thanh sạch của loài thọ tạo của Đức Chúa Trời trước sự loạn nghịch của Lucifer và Sự Sa Ngã phạm tội của con người.
3. Thứ ba, có sự trong sạch THEO ĐỊA VỊ. Đây là sự trong sạch hay thánh khiết chúng ta nhận lãnh khi chúng ta tin cậy Chúa Jêsus là Cứu Chúa của chúng ta. Ngay giây phút bạn được cứu, Đức Chúa Trời quy cho bạn sự công bình của Đấng Christ (II Côrinhtô 5.21). Từ giây phút chúng ta được cứu, Đức Chúa Trời nhìn thấy chúng ta “mặc lấy” sự công bình trong Đấng Christ.
a. Hêbơrơ 9.14 chép: “huống chi huyết của Đấng Christ, là Đấng nhờ Đức Thánh Linh đời đời, dâng chính mình không tì tích cho Đức Chúa Trời, thì sẽ làm sạch lương tâm anh em khỏi công việc chết, đặng hầu việc Đức Chúa Trời hằng sống, là dường nào!”
b. Rôma 4.5 chép: “còn kẻ chẳng làm việc chi hết, nhưng tin Đấng xưng người có tội là công bình, thì đức tin của kẻ ấy kể là công bình cho mình”.
4. Thứ tư, có sự trong sạch HIỂN NHIÊN. Khi Đức Chúa Trời gắn sự trong sạch hay công bình của Đấng Christ vào đời sống chúng ta, đây không chỉ là một câu nói thôi đâu, mà là sự hiển nhiên (II Phierơ 1.2-4). Khi một Cơ đốc nhân phạm tội, ấy là do bổn tánh hay phạm tội gây ra, chớ không phải người bề trong thanh sạch, mà bởi xác thịt tội lỗi.
5. Thứ năm, có sự trong sạch THỰC TẾ. Đây là chi tiết rất khó. Sự trong sạch nầy có nghĩa là sống bề ngoài thanh sạch phải y như người bề trong. Đây là một trận chiến!
a. II Côrinhtô 7.1 chép: “Hỡi những kẻ rất yêu dấu của tôi, chúng ta đã có lời hứa dường ấy, thì hãy làm cho mình sạch khỏi mọi sự dơ bẩn phần xác thịt và phần thần linh, lại lấy sự kính sợ Đức Chúa Trời mà làm cho trọn việc nên thánh của chúng ta”.
b. I Phierơ 1.14-16 chép: “Anh em đã nên như con cái hay vâng lời, thì chớ có làm theo sự dâm dục, là sự cai trị trong anh em ngày trước, về lúc anh em còn mê muội. Nhưng, như Đấng gọi anh em là thánh, thì anh em cũng phải thánh trong mọi cách ăn ở mình, bởi có chép rằng: Hãy nên thánh, vì ta là thánh”.
c. Đức Chúa Trời muốn chúng ta phải sống thanh sạch về người bề ngoài cũng y như thanh sạch về người bề trong. Giống như chiếc áo trắng với những dòng chỉ đen vậy.
Keith Miller viết: “Tôi lấy làm lạ một khi là Cơ đốc nhân chúng ta đã phát triển loại khải tượng có khả năng chọn lọc cẩn thận, khải tượng ấy cho phép chúng ta dấn thân sâu sắc và thành thật vào sự thờ phượng, vào các sinh hoạt của Hội thánh hết ngày này qua ngày khác lại quá mệt nhọc trong công việc làm ăn kiếm sống mà không hề nhận biết điều đó”. Trong quyển “Loving God” (Kính sợ Đức Chúa Trời), Chuck Colson viết: “Cơ đốc giáo không phải là nghi thức khoa trương mà chúng ta trình diễn vào ngày Chúa nhật. Cơ đốc giáo không thay đổi bởi các tiêu chuẩn của Kinh Thánh về sự nên thánh của cá nhân và đổi lại tìm cách đưa sự thánh khiết vào trong xã hội mà chúng ta đang sinh sống trong đó”.
6. Thứ sáu, có sự trong sạch HOÀN TOÀN. Đây là sự trong sạch mà dân sự của Đức Chúa Trời sẽ có trong loại thân thể đã được làm cho vinh hiển. I Giăng 3.2 chép: “Chúng ta biết rằng khi Ngài [Chúa Jêsus] hiện đến, chúng ta sẽ giống như Ngài, vì sẽ thấy Ngài như vốn có thật vậy”.
D. Vì lẽ đó người “có lòng trong sạch” trước hết đã được cứu, có sự công bình của Đấng Christ bao phủ tấm lòng của bạn. Thứ hai, có lòng trong sạch phải thực thi sự thanh sạch, thể hiện ra bên ngoài những gì Đức Chúa Trời đã dựng nên nơi người bề trong của bạn.
II. MỘT NGƯỜI LÀM SẠCH TẤM LÒNG BẰNG CÁCH NÀO?A. Về mặt lịch sử, con người đã nghĩ ra nhiều cách để đạt tới sự nên thánh.
1. Có người đã thử tuân theo luật pháp, xác định một bộ luật và tín điều rất khe khắt bởi đó họ tự xét đoán họ và xét đoán thế gian. NGƯỜI PHARISI đã thử theo cách nầy. Chúa Jêsus phán rằng họ đã sống giống như “mồ mả tô trắng bề ngoài cho đẹp, mà bề trong thì đầy xương người chết và mọi thứ dơ dáy” (Mathiơ 23.37). Chúng ta không cần các luật lệ, chúng ta cần lẽ thật!
2. Có người đã thử hình thức đổi mới, thử quan hệ với xã hội của họ theo các giới hạn của con người. NGƯỜI SAĐUSÊ đã thử cách nầy và đã chối bỏ các sự dạy quan trọng của Kinh Thánh như sự sống lại. Hầu hết các nhóm chính đều gạt bỏ Kinh Thánh qua một bên.
3. Có người đã thử chủ nghĩa tích cực. Đây là hạng người QUÁ KHÍCH, họ tin phương thức duy nhất cho Đức Chúa Trời để thay đổi xã hội là bởi lời tuyên truyền học thuyết về chính trị. Xã hội của chúng ta không cần một sự thay đổi về chính trị, chúng ta cần sự thay đổi về mặt thuộc linh!
4. Có người đã thử chế độ ưu tiên, tự họ rời khỏi xã hội, các mối quan hệ, và mọi thứ tiêu khiển của thế gian, khiến mọi năng lực của họ vào sự suy gẫm và sự cầu nguyện. Làm sao chúng ta làm chứng cho người khác về Đấng Christ theo cách nầy?
B. Đức Chúa Trời luôn luôn cung ứng một phương thức để làm theo mọi điều Ngài đã truyền dạy. Chúng ta không thể sống loại đời sống thánh khiết bằng cách làm theo các ý tưởng của chúng ta cho được. Châm ngôn 20.9 chép: “Ai có thể nói: Ta đã luyện sạch lòng mình, Ta đã trong sạch tội ta rồi?” Giêrêmi nói: “Người Ê-thi-ô-bi có thể đổi được da mình, hay là con beo đổi được vằn nó chăng?” (Giêrêmi 13.23).
C. Kinh Thánh đề nghị ít nhất 5 bước trong việc “có lòng trong sạch”.
1. BƯỚC 1 là Sự Cứu Rỗi Qua Con của Đức Chúa Trời.
a. Một người có thể đi nhà thờ, dâng hiến tiền bạc, sống chơn thật, đáng tin cậy, trung tín, khả kính, và vẫn phải đi địa ngục. Sao vậy? Người ấy không có “lòng trong sạch”. Mặc dù người ấy tìm cách sống trong sạch ở bề ngoài, nhưng như thế vẫn còn cách xa Chúa Jêsus lắm (Rôma 3.10, 23; Êsai 64.6).
b. Rôma 3.20 chép: “vì chẳng có một người nào bởi việc làm theo luật pháp mà sẽ được xưng công bình trước mặt Ngài, vì luật pháp cho người ta biết tội lỗi”. Êphêsô 2.8-9 chép: “Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình”.
c. Nếu bạn chưa thực được cứu, hãy tin cậy Đấng Christ ngay hôm nay. Chỉ có Ngài mới có quyền làm cho bạn thưc sự “có lòng trong sạch”.
2. BƯỚC 2 là Tin Cậy Vào Quyền Phép của Đức Chúa Trời.
a. Bạn vô quyền không thể tự cứu lấy mình được, bạn vô quyền không thể tự sống công nghĩa được.
b. Trong nhiều năm trời, tôi đã thử sống theo những gì Đức Chúa Trời muốn tôi sống và tôi luôn luôn thất bại. Sao vậy? Tôi đang tìm cách hầu việc Đức Chúa Trời bằng sức riêng của tôi, chớ không phải bằng quyền phép của Ngài. Chúa Jêsus đã phán trong Giăng 15.5: “Ta là gốc nho, các ngươi là nhánh. Ai cứ ở trong ta và ta trong họ thì sinh ra lắm trái; vì ngoài ta, các ngươi chẳng làm chi được”.
c. Sau cùng tôi học được bí quyết của đời sống Cơ đốc đắc thắng là đơn sơ đầu phục Đức Chúa Trời mỗi ngày và nương cậy vào quyền phép của Ngài. Đức Chúa Trời đã phán với Phaolô: “Ân điển ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối. Vậy, tôi sẽ rất vui lòng khoe mình về sự yếu đuối tôi, hầu cho sức mạnh của Đấng Christ ở trong tôi” (II Côrinhtô 12.9).
3. BƯỚC 3 là Sức Lực Của Lời Đức Chúa Trời.
a. Hêbơrơ 4.12 chép: “Vì lời của Đức Chúa Trời là lời sống và linh nghiệm, sắc hơn gươm hai lưỡi, thấu vào đến đỗi chia hồn, linh, cốt, tủy, xem xét tư tưởng và ý định trong lòng”.
b. Không một Cơ đốc nhân nào sống thanh sạch mà lại cách xa Lời của Đức Chúa Trời cho được. Lời Chúa giống như bộ sạc cho loại pin thuộc linh của bạn vậy. Đó là thức ăn thuộc linh. Không có Lời Chúa đời sống thuộc linh của bạn sẽ không còn chi nữa! Thi thiên 119.11 chép: “Tôi đã giấu lời Chúa trong lòng tôi, để tôi không phạm tội cùng Chúa!”
4. BƯỚC 4 là Quyền Lãnh Đạo của Thánh Linh Đức Chúa Trời. Tầm quan trọng của một đời sống “thanh sạch” là phải “đầy dẫy Đức Thánh Linh” (Êphêsô 5.18). Galati 5.16 chép: “Vậy tôi nói rằng: Hãy bước đi theo Thánh Linh, chớ hề làm trọn những điều ưa muốn của xác thịt”. Hãy lắng nghe Thánh Linh của Đức Chúa Trời đang ngự trong lòng bạn. Hãy làm theo tiếng phán của Ngài.
5. BƯỚC 5 là Thông Công Trong Sự Hiện Diện của Đức Chúa Trời.
a. Bạn không thể “trong sạch” khi chẳng có sự cầu nguyện. Chúng ta không thể nhìn biết ý chỉ của Đức Chúa Trời, hiểu biết mục đích của Ngài, hay ứng dụng Lời của Ngài mà không có sự cầu nguyện.
b. Êphêsô 6.18 chép: “Hãy nhờ Đức Thánh Linh, thường thường làm đủ mọi thứ cầu nguyện và nài xin”.
c. Chúng ta cần phải cầu xin sự tha thứ khi chúng ta phạm tội không thể tránh được. Đavít đã cầu nguyện: “Xin dựng nên trong tôi một lòng thanh sạch” (Thi thiên 51.10). I Giăng 1.9 chép: “Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác”.
Dag Hammarskjold – Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc vào giữa và cuối thập niên 1950 nói: “Quý vị không thể chơi đùa với con thú ở trong bạn mà không có việc trở thành một con thú trọn vẹn, chơi đùa với sự nói dối mà không bỏ đi quyền nói thật, chơi đùa với sự độc ác mà không có việc mất đi ý thức trong lý trí. Người nào muốn giữ ngôi vườn của mình thật ngăn nắp không nên để cho cỏ mọc tràn lan”.
III. ĐÂU LÀ LỢI ÍCH CỦA VIỆC “CÓ LÒNG TRONG SẠCH”?A. Chữ đầu tiên của phước lành nầy nói chúng ta sẽ được “phước”. Chữ nầy có nghĩa là “hạnh phúc” hay “may mắn”. Nếu bạn muốn sống hạnh phúc, hãy “có lòng trong sạch”.
B. Lợi ích thứ hai của việc “có lòng trong sạch” đó là chúng ta sẽ “thấy Đức Chúa Trời”.
1. Chúng ta chưa sẵn sàng để nhìn thấy Đức Chúa Trời bằng mắt thường.
a. Môise là vị lãnh tụ tài ba của Ysơraên khi Đức Chúa Trời giải cứu họ ra khỏi cảnh nô lệ ở Aicập. Môise cũng được biết là đấng ban luật pháp vì ông đã trèo lên núi Sinai để nhận lãnh luật pháp từ Đức Chúa Trời.
b. Trong Xuất Êdíptô ký 33, trong khi trò chuyện với Đức Chúa Trời ở trên núi, Môise đã nói ra một điều mà lòng ông hằng ao ước: “Tôi xin Ngài cho tôi xem sự vinh hiển của Ngài!” (câu 18). Đức Chúa Trời đáp: “Ngươi sẽ chẳng thấy được mặt ta, vì không ai thấy mặt ta mà còn sống” (câu 20). Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã cho phép Môise nhìn thấy “lưng” của Đức Chúa Trời, và Ngài có phán: “nhưng thấy mặt ta chẳng được” (câu 23).
c. Tại sao Môise không thể nhìn xem mặt của Đức Chúa Trời? Ông chưa sẵn sàng. Mặc dù ông đã được cứu và đã được dựng nên một “lòng trong sạch”, ông hãy còn sống trong xác thịt tội lỗi. Chúng ta sẽ không thấy được mặt của Đức Chúa Trời cho tới chừng ngày lớn khi xác thịt tội lỗi của chúng ta không còn nữa và chúng ta đứng trước mặt Ngài trong loại thân thể đã được làm cho vinh hiển.
d. I Giăng 3.2 chép: “Hỡi kẻ rất yêu dấu, chính lúc bây giờ chúng ta là con cái Đức Chúa Trời, còn về sự chúng ta sẽ ra thể nào, thì điều đó chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Ngài hiện đến, chúng ta sẽ giống như Ngài, vì sẽ thấy Ngài như vốn có thật vậy”.
2. Chúng ta có thể nhìn thấy Đức Chúa Trời bằng cặp mắt thuộc linh.
a. Chúa Jêsus phán: “Ai đã thấy Ta thì thấy Cha”. Giống như người Pharisi trong thế kỷ đầu tiên có thể nhìn thấy sự hoá thân thành nhục thể rất trọn vẹn của Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, chúng ta có thể thấy Ngài ngay hôm nay khi Ngài đang tác động trong đời sống chúng ta.
b. Tôi có đọc một bài viết trong tuần nầy về một bé gái, nó đến hỏi một bà trong Hội thánh: “Tại sao bà nhắm mắt khi bà cất tiếng hát thế?" Bà ấy đáp: “Làm thế tôi có thể nhìn thấy Đức Chúa Trời”. Khi chúng ta đóng tất cả những quyến rũ của thế gian lại và cứ nhắm vào sự thanh sạch, chúng ta nhìn thấy Đức Chúa Trời đang tác động mọi sự ở quanh chúng ta.
c. Chúng ta nhìn thấy Ngài trong GIA ĐÌNH, HỘI THÁNH, CÁC MỐI QUAN HỆ VIỆC LÀM của chúng ta. Một trong niềm vui lớn lao nhất của tôi là nhìn thấy Đức Chúa Trời đang vận hành trong đời sống của bạn. Ngài đang vận hành ở trong bạn đấy!
d. Một trong các đặc điểm quan trọng nhất của Chúa Jêsus không giống như chúng ta, ấy là Ngài không hề đeo mặt nạ. Ngài đã sống rất chân thật. Ngài không che giấu điều gì vì Ngài chẳng có chi để che giấu hết. Ngài kêu gọi chúng ta hiệp tác với Ngài, lột bỏ hết các thứ mặt nạ, vì Ngài đã dựng nên “lòng trong sạch” trong chúng ta, chúng ta phải tập trung vào sự thanh sạch có tính thực hành.
Ngày kia, có vị Mục sư trẻ được người ta hộ tống qua một mỏ than. Ngay lối vào ông trông thấy một đoá hoa trắng thật là đẹp nở ra từ mặt đất đen ngòm. “Làm sao đoá hoa ấy nở ra thanh sạch và rực rỡ như thế trong cái mỏ bẩn thỉu nầy?” nhà truyền đạo hỏi. Người hướng dẫn đề nghị: “Ném một ít bụi than lên hoa ấy rồi ông sẽ thấy”. Khi ông làm theo, ông rất đỗi ngạc nhiên khi thấy những hạt than đen bóng rớt khỏi các cánh hoa trắng như tuyết kia, càng làm cho đoá hoa ra dễ thương và chẳng tì vít chi y như trước đó. Bề mặt của đoá hoa ấy mượt mà đến nỗi những mạt than bụi cũng không thể bám vào đó được. Nếu chúng ta nhận biết Đấng Christ làm Cứu Chúa của chúng ta và sống mỗi ngày đầu phục Ngài, những hạt than bùn bẩn thỉu của thế gian sẽ rơi ra khỏi bạn cho xem. Hãy ném bỏ đi các thứ MẶT NẠ và hãy sống chơn thật trước mặt Ngài.

Thứ Tư, 27 tháng 4, 2011

Bài 13: Mathiơ 5.7: "PHƯỚC CHO NHỮNG KẺ HAY THƯƠNG XÓT"


MATHIƠ – VUA CÁC VUA
SỨ ĐIỆP CỦA NHÀ VUA
PHƯỚC CHO NHỮNG KẺ HAY THƯƠNG XÓT
Mathiơ 5.7
1. Ngày kia, khi Frederick II – một vị Vua của Nước Phổ vào thế kỷ thứ 18 trên chuyến thanh tra một nhà tù ở Bá Linh, các tù nhân đã chào đón ông bằng những tiếng kêu gào, họ quỳ gối xuống và cho rằng sự họ bị nhốt là bất công. Khi lắng nghe những lời biện hộ vô tội nầy, mắt của Frederick nhìn vào một người đang ngồi ở trong góc nhà tù, một tù phạm dường như chẳng quan tâm tới những rối động xung quanh. Frederick đã hỏi ông ta: “Sao ngươi lại ở đây?” “Tâu Bệ Hạ, cướp có vũ trang”. Nhà vua hỏi: “Ngươi có tội không?” “Ồ, thưa có ạ, thực như thế, tâu Bệ Hạ. Tôi hoàn toàn xứng đáng với hình phạt của mình”. Ngay lúc đó, Frederick gọi viên cai ngục đến: “Hãy thả kẻ trọng tội nầy ra ngay lập tức”, vua nói: “Ta không muốn giữ hắn trong nhà ngục nầy, vì ở đây hắn sẽ làm hư hỏng hết hạng người vô tội đang ở trong đó”.
2. Một trong các thuộc tính đáng kinh ngạc của Đức Chúa Trời là ơn thương xót của Ngài. Bài thánh ca: “Thành Tín Chúa Rất Lớn Thay” (Thánh ca 43) trưng dẫn Ca thương 3.22-23: “Ấy là nhờ sự nhân từ Đức Giê-hô-va mà chúng ta chưa tuyệt. Vì sự thương xót của Ngài chẳng dứt. Mỗi buổi sáng thì lại mới luôn, sự thành tín Ngài là lớn lắm”. Thi thiên 103.11 chép: “Vì hễ các từng trời cao trên đất bao nhiêu, Thì sự nhân từ Ngài càng lớn cho kẻ nào kính sợ Ngài bấy nhiêu”. Thi thiên 145.9 chép: “Đức Giê-hô-va làm lành cho muôn người, Sự từ bi Ngài giáng trên các vật Ngài làm nên”.
3. Vì Đức Chúa Trời là giàu có trong sự thương xót, Ngài muốn truyền đạt đức tính ấy vào chúng ta là hạng tôi tớ Ngài. Hãy lưu ý chuỗi tấn triển của Các Phước Lành.
A. Thứ nhất, chúng ta “có lòng khó khăn”, nghĩa đen là “ăn mày thuộc linh”. Giống như người kia ở trong tù, chúng ta càng phải tỉnh thức nhiều về tình trạng tội lỗi của chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời. Sự ăn năn bảo đảm cho chúng ta một chỗ trong “Nước thiên đàng” (câu 3).
B. Khi chúng ta nhìn thấy tấm lòng mình là gian ác, chúng ta “than khóc”. Chỉ với thái độ khiêm nhường nầy chúng ta mới được Đức Chúa Trời “yên ủi” (câu 4).
C. Vì cớ sự thay đổi nầy, chúng ta thấy Đức Chúa Trời là thánh khiết và công bình, điều nầy khiến cho chúng ta phải “nhu mì” và hạ mình xuống trước mặt Ngài (câu 5).
D. Còn đây là kết quả khác về sự hiện diện của Đức Chúa Trời trong đời sống chúng ta: đó là chúng ta “đói khát sự công bình”.
4. Hết thảy các nguyên tắc nầy trong bốn phước lành đầu tiên là các nguyên tắc nội tại ở trong lòng và trí. Bốn nguyên tắc sau cùng là những thay đổi ngoại tại, chúng đến như một kết quả của các nguyên tắc nội tại kia.
I. Ý NGHĨA CỦA SỰ THƯƠNG XÓT.A. Thương xót là LÒNG TRẮC ẨN dẫn tới HÀNH ĐỘNG.1. “Thương xót” ra từ một chữ Hy lạp có nghĩa là: “động lòng trắc ẩn” hoặc “tỏ ra lòng trắc ẩn”. Chúng ta có lòng thương xót khi chúng ta tỏ ra lòng thương xót cho những người đang có cần.
2. Chúa Jêsus là tấm gương cao cả nhất về lòng thương xót. Ngài chữa lành cho kẻ đau, khiến cho kẻ què đi được, ban ánh sáng cho người mù, khiến cho kẻ điếc nghe được, và ban sự sống cho kẻ chết. Ngài yêu thương và tha thứ cho hạng kỵ nữ, người thâu thuế, kẻ say sưa, và những kẻ phạm tội tà dâm. Ngài khóc với người buồn rầu và là đồng bạn với người cô độc. Ngài ẳm bồng con trẻ trong vòng tay rồi chúc phước cho chúng. Ngài là sự hoá thân của lòng thương xót. Êsai 42.3 nói về Ngài như sau: “Người sẽ chẳng bẻ cây sậy đã giập, và chẳng dụt tim đèn còn hơi cháy”.
3. Một trong các hình ảnh nổi bật về lòng thương xót của Ngài là sự cố NGƯỜI ĐỜN BÀ PHẠM TỘI TÀ DÂM (Giăng 8.7-11).
4. Chúa Jêsus có lòng thương xót dân sự vì Ngài yêu thương họ và nhìn thấy các nhu cần lớn lao của họ (9.35-36).
B. Thương xót không phải là LO CHO MÌNH TRƯỚC.1. Có nhiều người giải thích câu nầy theo một cách rất ích kỷ. Họ tìm cách hành động trong sự thương xót với những người sống quanh họ để cho nhiều người khác tỏ lòng thương xót họ. Đây là loại ứng xử: “tay nầy rửa sạch cho tay kia”.
2. Người Pharisi tự xưng công bình tin rằng khi tỏ ra lòng thương xót cho hạng người ăn xin bằng cách bố thí cho họ những thứ mà họ muốn nhắm vào để đổi chác với Đức Chúa Trời.
3. Người có tánh ích kỷ chỉ muốn tỏ ra lòng thương xót và sự tử tế khi họ nghĩ trong đó cũng có cái gì đó cho họ. Tôi tin phần nhiều các nhà chính trị ngày nay đang ủng hộ nhiều chương trình phúc lợi, xã hội chỉ vì họ biết sự ủng hộ ấy đem lại cho họ nhiều lá phiếu từ khu vực của họ.
C. Thương xót còn hơn cả CẢM XÚC nữa.1. Bạn có bao giờ để ý ai đó với một chữ ký rồi nói: “Làm việc vì bánh” hay những đứa trẻ nhỏ rách rưới rồi có cảm giác thương hại chúng không? Có người gọi đấy là cảm xúc lòng trắc ẩn hay lòng thương xót.
2. Thương hại là cảm xúc mà bạn đang cảm nhận. Thương xót là một hành động bạn đang nắm lấy. Thật là dễ nói: “Sao họ không chịu đi làm” hoặc “Tôi nộp thuế cho họ”.
3. Thương hại là một cảm xúc. Thương xót bước vào hành động. Thương xót làm thoả mãn các nhu cần của con người, giúp đỡ ai đó một tay, cho kẻ đói ăn, yên ủi kẻ buồn rầu, tình cảm với kẻ bị chối bỏ và tha thứ cho kẻ phạm lỗi. Thương xót là đức tính đáng yêu nhất trong các đức tính. Có một dòng tương tự từ vở kịch “Tên Lái Buôn Thành Venise” của Shakespeare: “Đức tính thương xót không bị vấy bẩn. Nó nhỏ xuống giống như giọt mưa rơi nhẹ từ trời. Thương xót ban cho chỗ đất bên dưới nó hai lần ơn phước…”.
D. Thương xót là một dấu hiệu của TRẠNG THÁI THUỘC LINH THẬT.1. Trong nhiều xã hội, thương xót bị coi là yếu đuối. Một triết gia La mã đã gọi thương xót là “một căn bệnh của linh hồn”. Đối với người La mã, tỏ ra lòng thương xót nơi chiến trường thì tương đương với hèn nhát.
2. Tỏ ra lòng thương xót vô kỷ không phải là bổn tánh của con người tự nhiên. Đó chỉ là hành động duy nhất của Đức Chúa Trời. Cho nên, chỉ có người tín đồ nào có Đức Thánh Linh ngự bên trong và đầu phục Đức Thánh Linh mới có thể tỏ ra lòng thương xót mà thôi.
3. Ápraham đã hành động trong sự thương xót và giải cứu Lót. Giôsép đã hành động trong sự thương xót, tha thứ và lo nuôi dưỡng các anh em mình. Môise trong sự thương xót đã nài xin Đức Chúa Trời cất bỏ bịnh phung ra khỏi chị mình là Miriam.
II. MINH HỌA VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT.A. Rõ ràng, Chúa Jêsus là tấm gương cao cả nhất trong những ai biết tỏ ra lòng thương xót. Tuy nhiên, trong Luca 10 Chúa Jêsus đã ban ra một thí dụ mô tả rõ ràng thái độ mà mỗi Cơ đốc nhân phải bày tỏ ra. Chúng ta gọi thí dụ ấy là “Người Samari Nhơn Lành”.
B. Trong các câu 25-29, Chúa Jêsus bước vào cuộc trao đổi với một “luật sư” hay một chuyên gia về luật pháp Môise. Người kia nhắc tới luật pháp: “Hãy yêu người lân cận như mình”. Theo một tư thế muốn xưng mình là công bình, ông ta đã hỏi: “Ai là người lân cận tôi?”
C. Chúa Jêsus khi ấy đã minh họa sự thật rằng mọi người đều là “kẻ lân cận” của chúng ta bằng cách kể ra một thí dụ nới tới người: “bị lâm vào tay kẻ cướp”, chúng giựt lột hết, đánh cho mình mẩy bị thương rồi để người đó lại “nửa sống nửa chết”.
D. Một “thầy tế lễ” không màng đến người nầy cũng giống như người “Lêvi”. Sau cùng, một “người Samari”, là kẻ thù ghét người Dothái đã dừng lại để cứu giúp cho người kia. Tỏ ra lòng thương xót, ông ta đã chăm sóc cho các vết thương của người nầy. Thậm chí ông ta còn đưa người nọ đến “quán trọ” rồi trả tiền phòng, hứa trở lại và trả thêm nếu cần thiết.
E. Khi ấy Chúa Jêsus mới hỏi: “Trong ba người đó, ngươi tưởng ai là lân cận với kẻ bị cướp…?” Câu trả lời rất rõ ràng. Lời đáp của Ngài là: “Hãy đi, làm theo như vậy”.
Tuần lễ nầy tôi nhắm vào một cuộc phiên bản hiện đại của thí dụ nầy:
Có người kia đi xuống Đường Lonesome – một con đường vắng vẻ và tăm tối từ quán trọ của Tom tới tiệm của Bill, ông ta say rượu bị đánh cướp và bị bỏ nằm đó gần chết tại chỗ gọi là Skid Row. Thế rồi có một cấp lãnh đạo tôn giáo khả kính đi tới, ông nầy là vị Mục sư ở nhà thờ kia rất lớn. Ông nhìn thấy người say với cái đầu bê bết máu và vết mửa đầy áo quần của ông ta. Sau khi quyết dịnh người nầy quá say không thể nói chi được về linh hồn của ông ta, vị Mục sư nghĩ xã hội sẽ làm việc chi đó để ngăn ngừa cảnh say sưa như vậy. Ông bèn đi qua phía bên phải cách xa xa như có thể được!
Không bao lâu sau đó, có một người làm việc xã hội cũng tới đến, học vấn của bà ta cho bà ta biết cách chăm sóc con người với đủ loại nan đề riêng hay chung. Bà ta nhìn thấy người say nầy đang nằm sải dài trên đường. Bà ta nhìn chăm ông đó, nhưng lại kết luận rằng mình không đủ sức giúp đỡ hay hy vọng, vì thế bà ta mới tiếp tục đi thẳng đường mình.
Sau một lúc có người kia bị xã hội ruồng bỏ, một tay hippi có mái tóc thật dài, anh ta lái xe xuống đường Lonesome. Mặc dù bị hạng người khả kính ghét bỏ và bị cảnh sát hồ nghi canh chừng, tay hippi nầy đã nhìn thấy người say đang nằm hấp hối. Và khi anh ta nhìn thấy người ấy, anh ta liền bước tới rồi gọi một gã hippi khác có mái tóc dài giống như anh ta đến giúp, và trong khi anh ta nói ra những lời lẽ nhẹ nhàng, anh ta nhấc người nầy lên rồi đưa đến bệnh viện để băng bó vết thương nơi đầu, rồi đưa tới một nơi tạm trú cho người say rượu, ở đó ông ta có thể nhận lãnh sự cứu giúp. Bây giờ thì ai là người lân cận?
F. Từ thí dụ nầy, tôi có thể nghĩ tới ba bài học mà chúng ta có thể tiếp thu về lòng thương xót.1. Thương xót có thể đến từ những nguồn rất bất ngờ.
2. Thương xót ném bỏ qua một bên mọi thành kiến chủng tộc, các dị biệt văn hoá, và tình trạng tự xưng công bình về tôn giáo, rồi bắt tay vào.
3. Thương xót thể hiện một sự hy sinh.
III. MỘT SỐ SO SÁNH VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT.A. Thương xót và TÌNH YÊU THƯƠNG.1. Hãy viết ra chữ “yêu thương” rồi khoanh tròn chữ đó lại. Tiếp đến, hãy viết chữ “thương xót” khoanh tròn lại, rồi vẽ một mũi tên từ “yêu thương” chỉ sang “thương xót” vì thương xót luôn luôn ra từ tình yêu thương.
2. Êphêsô 2.4-5 chép: “Nhưng Đức Chúa Trời, là Đấng giàu lòng thương xót, vì cớ lòng yêu thương lớn Ngài đem mà yêu chúng ta, nên đang khi chúng ta chết vì tội mình, thì Ngài làm cho chúng ta sống với Đấng Christ, ấy là nhờ ân điển mà anh em được cứu”.
3. Yêu thương lớn hơn thương xót. “Tình yêu” là yêu thương khi chẳng có tội lỗi nào để tha thứ hoặc nhu cần nào phải thoả mãn. Trước sự sáng tạo, Đức Chúa Cha đã yêu thương Đức Chúa Con và Đức Chúa Con đã yêu thương Đức Chúa Cha.
4. Tôi yêu gia đình tôi, tôi tiếp trợ cho mọi nhu cần của họ. Cho dù họ chẳng cần thứ chi, tôi vẫn yêu thương họ.
5. Mục tiêu của tôi là phải yêu thương mọi người như Đức Chúa Trời yêu, khi ấy thì tôi mới “giàu lòng thương xót” được. Không có tình yêu thương thì chẳng có lòng thương xót chi cả.
B. Thương xót và SỰ THA THỨ.1. Ở dưới chữ “thương xót” mà bạn đã khoanh tròn, vẽ ra một mũi tên chỉ sang vòng tròn khác. Trong vòng tròn đó hãy viết chữ “tha thứ”. Giống như yêu thương tạo ra lòng thương xót, lòng thương xót sẽ tạo ra sự tha thứ.
2. Sự Đức Chúa Trời tha thứ tội lỗi chúng ta nảy sinh từ lòng thương xót của Ngài. Tít 3.5 chép rằng Chúa Jêsus đã cứu chúng ta: “không phải cứu vì việc công bình chúng ta đã làm, nhưng cứ theo lòng thương xót Ngài, bởi sự rửa về sự lại sanh và sự đổi mới của Đức Thánh Linh”.
3. Lòng thương xót của Đức Chúa Trời trỗi hơn tội lỗi chúng ta và phu phỉ từng nỗi yếu đuối và từng nhu cần của chúng ta.
C. Thương xót và SỰ CÔNG BÌNH.1. Bên cạnh vòng tròn “thương xót” vẽ một vòng tròn khác nữa rồi viết “sự công bình” vào đó. Thương xót song hành với sự công bình.
2. Công bình cung ứng chính xác điều chi thích đáng. Lòng thương xót cung ứng không bằng vậy. Khi bạn vi phạm chạy quá tốc độ, bị chặn lại rồi người ta đưa cho một biên lai cảnh cáo, đó không phải là sự công bình, mà đó là sự thương xót.
3. Đức Chúa Trời vừa là công bình, vừa có lòng thương xót. Nếu Ngài chỉ có lòng thương xót thôi, Ngài không thể công bình được. Ngài hình phạt tội lỗi chúng ta qua Đấng Christ trên thập tự giá và rồi trải lòng thương xót trên chúng ta. Lòng thương xót của Ngài luôn sẵn có qua sự nguôi giận.
4. Có một nhận định về sự thương xót giả dối. Trong hệ thống luật pháp của chúng ta thường không có sự công bình cũng như không có lòng thương xót vì chẳng có sự hình phạt cũng như không có sự tha thứ dành cho tội lỗi. Khi tội lỗi được bỏ qua, thì nó hãy còn ở đó. Đó là ân điển rẻ mạt.
5. Đây là lý do tại sao là cần thiết cho một người phải ăn năn hoặc phải “có lòng khó khăn” để được cứu. Đức Chúa Trời xử lý với tội lỗi. Ngài không bỏ qua nó.
IV. NGUỒN CỦA SỰ THƯƠNG XÓT.A. Thương xót lưu xuất ra từ Đức Chúa Trời. Chúng ta chỉ bày tỏ ra lòng thương xót thực khi chúng ta đã được sanh lại, được quyền phép của Đức Chúa Trời thay đổi trong sự cứu rỗi.
B. Hành động thương xót cao cả nhất chính là sự chết của Đấng Christ. Thập tự giá là dấu hiệu lớn lao chỉ về lòng thương xót. Donald Barnhouse đã viết: “Tất cả lòng thương xót mà Đức Chúa Trời từng ban cho con người thì Ngài đã có rồi, khi Đấng Christ chịu chết. Nghĩa là toàn bộ sự thương xót. Không thể có thêm hơn nữa… Dòng suối giờ đây đã rộng mở, nó tuôn chảy và cứ tuôn chảy cách tự do” (MacArthur, p.195).
C. Một bài thánh ca chép: “Lòng thương xót thật là cao cả và ân điển thật tự do; có sự tha thứ thật rời rộng cho tôi; tại đồi Gôgôtha, linh hồn nặng nề của tôi đã tìm được sự tự do!”
V. CÁCH THỂ HIỆN LÒNG THƯƠNG XÓT.A. Chúng ta thể hiện lòng thương xót bằng cách tỏ lòng YÊU THƯƠNG đối cùng người khác.
1. Thương xót là một cảm xúc về lòng thương hại, nhưng nó phải hơn cả một cảm xúc, sự cảm thương của nó phải nằm trong hành động. Đó là một thái độ giống như thái độ của Đấng Christ là Đấng luôn đặt người khác lên trên hết.
2. Khi chúng ta đọc về các loại tội phạm, những kẻ say sưa và tiêm chích ma túy, kẻ cưỡng dâm, du đảng, và hạng người gạ gẫm trẻ em, chúng ta cần phải nhớ rằng chỉ bởi ân điển của Đức Chúa Trời chúng ta mới không có mặt giữa vòng họ.
3. Chúng ta than khóc khi linh hồn của người thân lìa khỏi xác, nhưng chúng ta cần phải có lòng thương hại thật đối với hạng người đang mất linh hồn trong chính thân thể hư mất của họ.
B. Chúng ta thể hiện lòng thương xót bằng cách CẦU THAY cho người khác.
1. Chúng ta học biết nhiều về các ưu thế của chúng ta bằng cách chúng ta cầu nguyện. Từ thập tự giá Chúa Jêsus đã cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ chẳng biết mình làm điều gì” (Luca 23.34). Êtiên đã cầu thay cho những kẻ đã ném đá ông: “Lạy Chúa, xin đừng đổ tội nầy trên họ” (Công vụ các sứ đồ 7.60).
2. Bạn đang cầu thay cho hạng người hư mất nào!?! Bạn có thể ghi ra 5 tên của những người không có Đấng Christ mà bạn đang cầu thay cho họ mỗi ngày?
C. Chúng ta thể hiện lòng thương xót bằng cách RAO GIẢNG tin lành cho người khác.
1. Tôi biết có những người đang đói khát, họ cần sự cứu giúp thắng hơn men rượu và cơn ghiền ma tuý, có những người với hàng trăm nhu cầu khác, dù vậy nhu cầu chính trong từng đời sống là Tin lành!
2. Rao giảng Tin Lành là hành động thương xót lớn lao nhất. Hành động ấy mang lại sự sống từ sự chết, hy vọng từ thất vọng, và vui mừng từ buồn rầu.
3. Hội thánh nầy cần phải tiếp thu nhiều từ Tin lành!
Một nhóm người ở Alabama được một người thoái chí, say sưa, thất nghiệp mời đến để xem ông ta tự thiêu. Một kỹ thuật viên chụp ảnh và âm thanh đáp ứng lại lời mời đó phải chọn giữa hai vai trò khi ngọn lửa bắt đầu. Họ có thể quay phim sự cố nầy như những người quan sát vô tư, hoặc họ phải dập ngọn lửa. Trong 37 giây cả nhóm người đứng quan sát người kia đang bốc cháy. May thay, có một nhân viên cứu hỏa tình nguyện đang đứng xem ngọn lửa. Nếu bạn nhìn thấy người kia đang bốc cháy, bạn sẽ đứng lui lại, quan sát hay cứu người đó? Nếu bạn thấy một người sắp chết và đi địa ngục, bạn có tìm cách để cứu người đó chăng?
VI. KẾT QUẢ CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT.A. Người nào có lòng thương xót “sẽ được thương xót”.
1. Lòng thương xót ấy không ra từ con người. Bạn có thể có lòng thương xót đối cùng người khác suốt cuộc đời bạn và không bao giờ kinh nghiệm sự thương xót ra từ người khác.
2. Chúng ta “được thương xót” từ Đức Chúa Trời. Ngài có lòng thương xót khi giải cứu chúng ta. Khi chúng ta có lòng thương xót đối cùng người khác, đổi lại Ngài càng thương xót chúng ta càng thêm, làm phu phỉ các nhu cần của chúng ta và cầm giữ lại sự Ngài hình phạt tội lỗi.
B. Chỉ có người “có lòng thương xót” mới “được thương xót” từ Đức Chúa Trời.
1. Đavít nói: “Kẻ hay thương xót, Chúa sẽ thương xót lại” (II Samuên 22.26).
2. Giacơ 2.13 chép: “Sự đoán xét không thương xót kẻ chẳng làm sự thương xót”.
3. Ở cuối lời cầu nguyện mẫu, Chúa Jêsus phán: “Vả, nếu các ngươi tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi ở trên trời cũng sẽ tha thứ các ngươi. Song nếu không tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi cũng sẽ không tha lỗi cho các ngươi”.
4. Chúng ta không kiếm được ơn cứu rỗi bằng cách tỏ ra lòng thương xót. Chúng ta được cứu bởi ơn thương xót của Đức Chúa Trời và nhận lãnh ít hay nhiều sự thương xót của Ngài do hành động của chúng ta đối cùng những người khác.
5. Chúa Jêsus minh họa lẽ thật nầy trong Thí dụ nói về Người Đầy Tớ Không Có Lòng Thương Xót (Mathiơ 18.23-35). Nếu chúng ta sau khi nhận lãnh ơn thương xót của Đức Chúa Trời, lại thất bại không tỏ ra lòng thương xót đối cùng những người khác, giống như con cái cứng đầu, chúng ta sẽ bị Đức Chúa Trời kỷ luật.
PHẦN KẾT LUẬN: NGAY BÂY GIỜ, LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI ĐANG SẴN CÓ CHO MỌI NGƯỜI!!! BẠN CHƯA ĐƯỢC CỨU SAO?
Khi Robert G. Ingersoll là người vô thần đang đưa ra những bài thuyết giảng của mình chống lại Đấng Christ và Kinh Thánh, khả năng lý luận của ông ta thường bảo đảm cho ông ta luôn luôn có một đám đông người đến nghe. Một tối kia, sau một bài thuyết giảng rất kích động, trong đó ông đã công kích đức tin của một người đặt nơi Cứu Chúa, ông ta đột nhiên ngưng lại rồi nói: “Tôi dã dành cho Đức Chúa Trời một cơ hội để minh chứng rằng Ngài đang hiện hữu và là Đấng Toàn Năng. Tôi thách Ngài đánh tôi chết trong vòng 5 phút đi”. Trước tiên, có một sự im lặng, kế đó người ta thấy khó chịu ngay. Một số người rời bỏ giảng đường, không thể để cho thần kinh mình bị căng thẳng, rồi một phụ nữ bị ngất đi. Ở cuối thời điểm thách thức đó, nhà vô thần lên tiếng nhạo báng: “Hãy xem đi! Chẳng có Đức Chúa Trời đâu hết. Tôi vẫn còn sống nhăng đây!” Sau bài giảng đó một thanh niên đến nói với một phụ nữ Cơ đốc: “Hay đấy, Ingersoll chắc chắn đã minh chứng một việc rất hay tối hôm nay!” Bà nầy đáp lại thật nhẹ nhàng: “Phải, đúng đấy, ông ta đã chứng tỏ rằng ngay cả tội nhân bẩn thỉu nhất không thể tát cạn được lòng thương xót của Chúa trong vòng 5 phút được!” Nếu một người chạy ra đứng phía trước chiếc xe của bạn, bạn sẽ đụng anh ta hoặc hành động trong sự thương xót? Ơn thương xót của Đức Chúa Trời vẫn còn đang rộng mở đấy thôi!

Thứ Năm, 7 tháng 4, 2011

Bài 12: Mathiơ 5.6: "PHƯỚC CHO NHỮNG KẺ ĐÓI KHÁT"


MATHIƠ – VUA CÁC VUA

SỨ ĐIỆP CỦA NHÀ VUA

PHƯỚC CHO NHỮNG KẺ ĐÓI KHÁT

Mathiơ 5.6

1. Có chàng thanh niên kia từng quỳ gối trước mặt một thiếu nữ xinh đẹp bên bờ hồ yên tĩnh. Anh ta nói: “Em yêu, anh mong em biết rõ là anh yêu em hơn cuộc sống nầy. Anh muốn em hãy lấy anh. Anh không phải là người giàu có. Anh chẳng có chiếc du thuyền nào, không có xe Rolls-Royce hay nhiều tiền bạc giống như Johnny Green, nhưng anh yêu em bằng cả chân tình”. Thiếu nữ kia dừng lại trong một phút rồi nói: “Anh yêu, em cũng yêu anh bằng cả chân tình nữa. Song trước khi em nói đồng ý, hãy nói cho em biết thêm một chút về Johnny Green”.

2. Câu chuyện hỏm hỉnh kia đã phác hoạ ra một sự thật rất phổ thông; người ta đang có một nỗi khát khao sâu sắc về nhiều thứ. Chúng ta được đánh dấu bằng một sự theo đuổi tham vọng với tư thế thật háo hức. Chúng ta muốn tiền bạc, danh tiếng, quyền lực, ảnh hưởng, sự tán thưởng, và sự công nhận. Giống như một con chó săn hăng mồi, chúng ta luôn giữ mũi của mình theo dấu vết, chạy sau ngọn gió lùng kiếm thứ gì có ở trước mặt chúng ta.

A. Gần như từng tin tức đăng trên báo nói về vụ bê bối hay hành động tội ác đang chỉ về ai đó đang ra sức làm thoả mãn cơn khao khát bên trong của mình bằng cách kiếm cho kỳ được quyền lực hay tiền bạc.

B. Các bộ môn thể thao luôn luôn nói về cơn khát khao chiến thắng, phải là người hạng nhất. Tôi vẫn còn nhớ vị huấn luyện viên môn bóng đá ở Trường trung học, ông hay nói cho chúng tôi biết rằng để chiến thắng, chúng ta cần phải có cái nhìn háo hức trong đôi mắt của mình.

C. Thậm chí phương tiện truyền thông cũng hay đưa ra ai đó đã tạo ra một thành tích mới hoặc có phần biểu diễn hay nhất.

D. Mỗi ngày các công ty hoạch định các chiến dịch mới, các cách chi trả mới, các liên doanh mới để trở thành loại chó săn hàng đầu.

Một nhóm thương gia người Hàn quốc đến tham quan phân xưởng dệt của người Mỹ. Người chủ xưởng thuật lại một câu chuyện hóm hỉnh đã được dịch ra rồi. Mấy người Hàn quốc bật cười lắng nghe. Người Mỹ kia liền hỏi, muốn dịch lại câu chuyện đó bằng mấy từ thôi, các bạn sẽ dịch như thế nào!?! Người Hàn quốc đáp: “Tôi muốn dịch là: Ông kia với quyển sổ tay thật lớn đã kể một câu chuyện hài. Ông thấy có được không!?!’”.

E. Các bảng thống kê cho thấy rằng 40% dân chúng trong quốc gia nầy không chung thuỷ với người bạn đời của họ. 50% trong chúng ta đang ly dị. Chúng ta khao khát sự thoả mãn và thoả lòng trong các mối quan hệ mới.

F. Có người tìm cách làm thoả mãn lòng khát khao của họ bằng cách sử dụng chính thân thể mình. Họ làm việc nhiều giờ trong phòng thể dục, hạn chế thực đơn của họ, chỉ có các thức ăn lành mạnh nhất mà thôi, họ tưởng rằng nếu thân thể họ coi được và sức khoẻ họ mạnh mẽ đủ, thì lòng khao khát bên trong của họ sẽ được thoả mãn.

G. Chúng ta làm hết sức mình để kiếm cho kỳ được thứ mà chúng ta đang tìm kiếm. Thực ra, trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập, ở đó bảo đảm cho chúng ta quyền “mưu cầu hạnh phúc”. Các tổ phụ không chắc kiếm được hạnh phúc vì điều đó vượt quá khả năng của họ. Đáng buồn thay, hầu hết chúng ta đang sống đời sống mình trong quốc gia rộng lớn nầy và không bao giờ đạt được hạnh phúc thật cả.

3. Vấn đề là, suy tưởng của chúng ta không tới mức. Giống như bài quốc ca xưa, chúng ta “đang tìm kiếm tình yêu ở những chỗ không đúng”. Không một lượng tiền bạc, quyền lực, danh tiếng, các mối quan hệ hay thành công nào khả dĩ có thể làm đầy được phần đói khát trong linh hồn của chúng ta.

4. Đức Chúa Trời đã dựng nên bên trong mỗi một chúng ta ý thức về sự trống không và nhu cần ở bên trong. Hết thảy chúng ta đều có một sự khát khao muốn làm cho đầy nhu cần nầy. Tuy nhiên, khoảng trống ấy không thể làm đầy được một khi sống xa cách Đức Chúa Trời.

5. Chúa Jêsus kêu gọi chúng ta phải nhận biết rằng đây là một sự khao khát về mặt thuộc linh. Câu 3 dạy chúng ta rằng chúng ta phải “có lòng khó khăn” nhìn biết tình trạng tội lỗi và nghèo khó về mặt thuộc linh của chúng ta. Sự nhìn biết ấy khiến cho chúng ta phải “than khóc” (câu 4). Kế đó chúng ta phải ý thức Đức Chúa Trời đáng sợ là dường nào và chúng ta phải trở nên “nhu mì” ở trước mặt Ngài. Khi ấy chúng ta nhìn biết rằng cơn khao khát thuộc linh ở bên trong chúng ta thuộc về bổn tánh thuộc linh, và cơn khao khát ấy sẽ được “làm đầy” khi chúng ta “đói khát sự công bình”.

I. Ý NGHĨA CƠN ĐÓI KHÁT THUỘC LINH.

A. Hầu hết chúng ta đều chưa biết tới cơn đói khát đe doạ sự sống.

1. Đói và khát là những hệ thống cảnh báo của cơ thể.

2. Trong những lúc cầu nguyện và lo nghĩ về mặt thuộc linh, tôi thường kiêng một bữa ăn hoặc trong một ngày hay hai ngày. Tôi mới biết rằng mình đã đói trong một lúc, nhưng rồi cơn đói cũng qua đi.

3. Tôi chưa hề chịu đói đến mức cơn đói trở thành một nỗi ám ảnh bao giờ.

Trong một bài viết nói về Cõi đời đời, E. M. Blaiklock đã viết về cuộc giải phóng xứ Palestine theo W.W.I. Một lực lượng đồng minh truy kích quân Thổ Nhĩ Kỳ qua một sa mạc bao la. Khi đoàn quân băng qua Beersheba, họ đã vượt quá xa đoàn lạc đà chở nước cho họ. Miệng lưỡi họ bị khô đi, đầu của họ bị đau rồi họ bị choáng váng và lả người ra. Hàng trăm người ngã chết. Đến khi đêm xuống, họ quyết định đi tới chỗ có giếng nước ở Sheriah. Do có một số người đi lạc hướng, nhiều người khác phải chờ đợi cả 4 tiếng đồng hồ trước khi rút nước ra khỏi mấy cái bình chứa. Một trong các sĩ quan đã nói: “Tôi tin rằng hết thảy chúng ta đều đọc được bài học thực tế đầu tiên trong Kinh Thánh từ Beersheba đến giếng nước Sheriah. Nếu cơn khao khát của chúng ta dành cho Đức Chúa Trời là cỡ đó, muốn tìm cầu sự công bình và ý chỉ của Ngài trong đời sống chúng ta, một khát khao nung nấu, thì trái của Thánh Linh sẽ đậu nhiều là dường nào!?! (MacArthur, pp.180-181).

B. Chúa Jêsus sử dụng phép ẩn dụ nói tới lòng khát khao mạnh mẽ nhất trong lãnh vực xác thịt để chỉ ra sự khát khao sâu sắc nhất trong vòng dân sự của Đức Chúa Trời.

1. Theo ngôn ngữ Hy lạp, ở đây muốn nói tới một sự mong mỏi liên tục muốn nhận được “sự công bình”.

2. Càng đồng đi gần gũi với Đức Chúa Trời, người ta càng muốn trở nên giống như Ngài hơn. Một người càng muốn biết rõ sự công bình của Đức Chúa Trời, người ấy càng khát khao muốn sống công nghĩa hơn. Đây là một cảm xúc nung nấu thật mạnh mẽ.

3. Trong phân đoạn tương ứng ở Luca 6.21, Chúa Jêsus phán: “Phước cho các ngươi hiện đang đói, vì sẽ được no đủ!”. Vấn đề là, có nhiều người không muốn sống công nghĩa đang lúc bây giờ. Họ muốn tìm cách trám đầy nỗi trống không bên trong họ với một thứ gì đó đang lúc bây giờ và tìm kiếm sự công bình sau.

C. Một sự khát khao nung nấu muốn sống “công nghĩa” rõ ràng đang ở trong lòng tất cả những tín đồ thật.

1. MÔISE khao khát muốn biết thêm về Đức Chúa Trời.

a. Ông đã trò chuyện với Đức Chúa Trời qua bụi gai cháy. Ông đã nhìn thấy quyền phép của Đức Chúa Trời qua các trận dịch lệ và qua việc chia Biển Đỏ ra làm hai. Ông đã nhìn thấy trụ mây và trụ lửa. Ông đã lo xây đền tạm của Đức Chúa Trời.

b. Xuất Êdíptô ký 33.11 chép: “Đức Giê-hô-va đối diện phán cùng Môi-se, như một người nói chuyện cùng bạn hữu mình”. Môise đã trông thấy Đức Chúa Trời nhiều rồi, thế nhưng ông vẫn xin: “Tôi xin Ngài cho tôi xem sự vinh hiển của Ngài!” (câu 18).

c. Đức Chúa Trời đặt Môise bên vầng đá rồi sự vinh hiển Ngài đi ngang qua, cho phép ông nhìn thấy phía sau lưng.

2. ĐAVÍT đã khát khao muốn biết thêm về Đức Chúa Trời. Ông đã nói trong Thi thiên 63.1: “Hỡi Đức Chúa Trời, Chúa là Đức Chúa Trời tôi, vừa sáng tôi tìm cầu Chúa; Trong một đất khô khan, cực nhọc, chẳng nước, Linh hồn tôi khát khao Chúa, thân thể tôi mong mỏi về Chúa”.

3. PHAOLÔ đã khát khao muốn biết thêm về Đức Chúa Trời.

a. Ông đã bỏ đi sư công bình riêng của mình “là sự công bình ra từ luật pháp” và tìm cầu sự công bình “bởi tin đến Đấng Christ mà được” (Philíp 3.9).

b. Tuy nhiên, như thế vẫn chưa phải là đủ, ông còn nói trong câu 10 rằng ông muốn “biết Ngài, và quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài”.

c. Ông là một người đã được đưa lên tới “từng trời thứ ba”, ở đó ông “nghe những lời không thể nói, mà không có phép cho người nào nói ra” (II Côrinhtô 12.2-4). Thế mà ông vẫn khao khát muốn nhìn xem Đấng Christ. Ông nói: “Vì Đấng Christ là sự sống của tôi, và sự chết là điều ích lợi cho tôi vậy” (Philíp 1.21).

4. PHIERƠ đã khát khao muốn biết thêm về Đức Chúa Trời. Ông đã đồng đi và đồng trò chuyện với Chúa, ông nói ông vẫn khát khao muốn “Hãy tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Jêsus Christ” (II Phierơ 3.18).

D. Vô luận một người biết rõ Đức Chúa Trời tới đâu, vẫn có nhiều điều cần phải biết thêm nữa. Vô luận một người thực thi “sự công bình” tới cỡ nào đi nữa, vẫn còn phải biết thêm nhiều điều nữa. Đây là một thắc mắc chỉ kết thúc trên thiên đàng mà thôi! Phải chăng điều nầyy đang đánh dấu đời sống của bạn? D. Martyn Lloyd-Jones đã viết mấy câu nầy: “Nếu câu nầy được viết ra cho bạn, một trong những câu nói phước hạnh nhất trong toàn bộ Kinh Thánh, bạn có thể biết chắc mình là một Cơ đốc nhân. Nếu không biết chắc, thì bạn đáng phải xét lại mọi nền tảng một lần nữa” (MacArthur, p.180).

II. CÁC MỤC TIÊU CỦA CƠN ĐÓI KHÁT THUỘC LINH.

A. Mục tiêu cơn đói khát thuộc linh dành cho người chưa tin Chúa là SỰ CỨU RỖI.

1. Khi một người “có lòng khó khăn” hoặc nhìn biết thực trạng tội lỗi của mình rồi “than khóc” tội lỗi đó, và “nhu mì” trước mặt Đức Chúa Trời rồi bắt đầu “đói khát” “sự công bình” của Ngài, người ấy sẽ được cứu.

2. Chúa Jêsus đang phán với hạng người Dothái vốn nung nấu với sự tự xưng công bình của họ.

3. Một người phải lìa bỏ mọi hy vọng tự cứu mình, lìa bỏ mọi công đức riêng và khao khát Đức Chúa Trời để được cứu.

4. Không những Đức Chúa Trời ban hiến cho cõi đời đời trên thiên đàng, mà còn ban cho sự yên ủi, sự bình an, vui mừng và tình bạn trong đời nầy nữa. Sự ban hiến ấy luôn miễn phí. Đúng là một sự ban cho!

B. Mục tiêu cơn đói khát thuộc linh dành cho người tin Chúa là SỰ NÊN THÁNH.

1. Đối với những tín hữu nào đã tiếp nhận sự công bình của Đấng Christ vào trong đời sống của họ, về địa vị thì họ là thánh, song vẫn hay phạm lỗi lầm trong khi còn sống. Cơn “đói”“khát” của họ không những là thánh khiết ở bên trong, mà cũng có ở bên ngoài nữa.

2. Không một người nào chưa tin Chúa mà “đạt tới” cấp độ thuộc linh trong đời nầy. Chúng ta phải luôn luôn đánh trận với xác thịt của mình. Phaolô đã cầu nguyện cho người thành Philíp để tình yêu của họ “càng ngày càng chan chứa hơn, trong sự thông biết và sự suy hiểu, để nghiệm thử những sự tốt lành hơn, hầu cho anh em được tinh sạch không chỗ trách được, cho đến ngày Đấng Christ” (Philíp 1.9-10).

3. Hãy nhớ thì của động từ là một cơn đói khát liên tiến.

4. Trong Thi thiên 23, vì Đức Giêhôva là Đấng Chăn Giữ chúng ta, Ngài “khiến tôi yên nghỉ nơi đồng cỏ xanh tươi; dẫn tôi đến mé nước bình tịnh” (câu 2).

III. KẾT QUẢ CỦA CƠN ĐÓI KHÁT THUỘC LINH.

A. Người nào “đói khát… sẽ được no đủ!”

1. Chữ Hy lạp nói tới no đủ là chorazo, chữ nầy thường được sử dụng để mô tả việc cho thú vật ăn cho tới chừng chúng no nê không còn ăn được nữa.

2. Chúng ta đói khát về Đức Chúa Trời, Ngài sẽ biến mỗi ngày ra giống như: “Ngày Cảm Tạ”. Chúng ta có thể ngồi lại, no nê với sự công bình của Đức Chúa Trời!

3. Nếu câu nầy nói tới sự đói khát liên tục, thì làm thế nào chúng ta no đủ cho được? Bạn có món ăn nào ưa thích không? Có khi bạn thèm muốn được ăn nó. Bạn ăn thức ăn ấy và cứ ăn cho tới chừng bạn no nê. Ăn như thế mới thoả mãn hơn là chỉ có nếm sơ qua. Người nào thèm khát sự công bình của Đức Chúa Trời sẽ được “no đủ”, nhưng no đủ như thế sẽ còn làm cho người “đói khát” thêm nữa. Đây là một sự nghịch lý về mặt thuộc linh.

B. Có nhiều phân đoạn Kinh Thánh phản ảnh sự thoả lòng của chúng ta trong việc tìm kiếm Đức Chúa Trời.

1. Thi thiên 107.9 chép: “Vì Ngài làm cho lòng khao khát được thoả thích, khiến cho hồn đói được đầy dẫy vật tốt”.

2. Thi thiên 34.10 chép: “Sư tử bị thiếu kém, và đói; nhưng người nào tìm cầu Đức Giêhôva sẽ chẳng thiếu của tốt gì”.

3. Thi thiên 23.1 chép: “Đức Giêhôva là Đấng chăn giữ tôi, tôi sẽ chẳng thiếu thốn gì”.

4. Giêrêmi 31.14 chép: “Ta sẽ làm cho lòng các thầy tế lễ chán chê vì đồ ăn béo; dân ta sẽ no nê về ơn phước của ta, Đức Giêhôva phán vậy”.

5. Chúa Jêsus đã phán với người đờn bà Samari trong Giăng 4.4 rằng: “Hễ ai uống nước ta sẽ cho, thì chẳng hề khát nữa. Nước ta cho sẽ thành một mạch nước trong người đó văng ra cho đến sự sống đời đời”.

6. Ngài phán với đoàn dân đông, họ đã ăn no sau khi Ngài cho 5.000 người ăn: “Ta là bánh của sự sống; ai đến cùng ta chẳng hề đói, và ai tin ta chẳng hề khát” (Giăng 6.35).

IV. CÁC DẤU HIỆU CỦA SỰ ĐÓI KHÁT THUỘC LINH.

A. Thứ nhất, có SỰ KHÔNG THOẢ LÒNG về đời sống thuộc linh của một người.

1. Giống như người Dothái trong thời của Chúa Jêsus, người nào thấy thoả lòng với công đức riêng của mình sẽ không bao giờ nếm được “sự công bình” của Đức Chúa Trời.

2. Thomas Watson đã viết: “Sự công bình luôn luôn là điều mà người thể ấy cần nhất” (MacArthur, p.184).

3. Bạn muốn có điều chi thêm vào đời sống thuộc linh của mình không, hay bạn chỉ muốn dầm mình trong sự ô uế của tội lỗi? Cả hai loài mèo và heo đều dính bẩn. Cái khác biệt là con heo thích ở bẩn và con mèo muốn mình được sạch.

4. Chúng ta phải cùng nói với sứ đồ Phaolô: “Khốn nạn cho tôi! Ai sẽ cứu tôi thoát khỏi thân thể hay chết nầy?” (Rôma 7.24).

B. Thứ hai, có SỰ KHÔNG THOẢ LÒNG với các vấn đề thuộc về đời nầy.

1. Tôi thích nhạc hay, thích trò chuyện, thích đọc sách và thích xem xinê. Tuy nhiên, nếu tôi khao khát, không một thứ nào trong các thứ nầy làm cho tôi thoả lòng được. Tôi cần đồ ăn, chứ không cần giải trí.

2. Chẳng có gì sai với các loại hình giải trí. Tuy nhiên, giải trí không thể làm thoả mãn mọi điều mà linh hồn khao khát.

3. Không một điều gì khác hơn sự công bình của Đức Chúa Trời mới có thể trám đầy khoảng trống trong đời sống chúng ta. Đức Chúa Trời đã dựng nên chúng ta theo phương thức đó.

C. Thứ ba, có một sự KHÁT KHAO Lời Đức Chúa Trời.

1. Lời của Đức Chúa Trời là đồ ăn cho linh hồn đang đói khát. Kinh Thánh chép: “Người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, song nhờ mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời” (Phục truyền luật lệ ký 8.3; Mathiơ 4.4, Luca 4.4). Thật là đáng ngạc nhiên lúc người ta bị thương tổn thì Kinh Thánh thường được đem ra đọc. Đấy là lý do tại sao những quyển Kinh Thánh Ghêđêôn lại được đem đặt trong các phòng ở khách sạn. Một phòng khách sạn có thể trở thành một nơi cô độc.

2. Giêrêmi đã nói: “Tôi vừa nghe những lời Ngài, thì đã ăn lấy rồi; lời Ngài là sự vui mừng hớn hở của lòng tôi vậy” (Giêrêmi 15.16).

3. Khi chúng ta tìm kiếm sự công bình, chúng ta có một sự thèm khát nhiều về LỜi của Đức Chúa Trời.

D. Thứ tư, có SỰ VUI THÍCH trong mọi phương diện của Đức Chúa Trời.

1. Thưởng thức mọi ơn phước của Đức Chúa Trời là điều rất đáng ưa thích: gia đình, sự thịnh vượng, một việc làm tốt, sức khoẻ…

2. Tìm được niềm vui trong các thử thách và kỷ luật của Đức Chúa Trời là một việc khác.

a. Châm ngôn 27.7 chép: “Kẻ no nê giày đạp tàng mật dưới chơn mình; song điều gì đắng cũng lấy làm ngọt cho kẻ đói khát”.

b. Giacơ 1.2 chép: “Hỡi anh em, hãy coi sự trăm bề thoạt đến cho anh em như là điều vui mừng trọn vẹn”.

c. Hêbơrơ 12.6 chép: “Vì Chúa sửa phạt kẻ Ngài yêu, hễ ai mà Ngài nhận làm con, thì cho roi cho vọt”.

d. Watson viết: “Kẻ đói khát theo đuổi sự công bình có thể hưởng lấy hương thơm của tin lành cũng như đang nếm mật ong vậy”.

E. Thứ năm, có SỰ QUYẾT ĐỊNH trong sự phục vụ Đức Chúa Trời.

1. Khi chúng ta thực sự khao khát lẽ công bình, chúng ta tìm kiếm và tiếp nhận sự công bình của Đức Chúa Trời mà chẳng cần một điều kiện tiên quyết nào. Chúng ta không cầu nguyện: “Lạy Chúa, nếu Ngài muốn… con sẽ…”. Chúng ta tìm kiếm Ngài và vâng theo Ngài với đức tin thật đơn sơ.

2. Người trai trẻ giàu có chỉ mong muốn có sự công bình của Đức Chúa Trời nếu sự công bình ấy phù hợp với mọi tính toán của anh ta. Chúng ta không thể tìm kiếm Đức Chúa Trời theo cách đó. Chúng ta tiếp nhận bất cứ điều chi Ngài chọn ban cho chúng ta. Mathiơ 6.33 chép: “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa”.

3. Chúng ta phải quyết định hầu việc Đức Chúa Trời và để cho Ngài cung ứng cho mọi kết quả. Chúng ta đang có đủ để thuộc về Ngài.

F. Thứ sáu, chúng ta đang có một NGÂN HÀNG phần thưởng đang chờ đón. Sigmund Freud có một câu chuyện rất hay kể về một chàng thuỷ thủ đã bị đắm tàu ở một hòn đảo nằm phía Biển Nam xa xôi. Những người bản xứ bắt lấy anh ta, vác lên vai rồi đặt anh ta lên một cái ngai rất thô sơ. Sau đó anh ta mới hay rằng theo tục lệ, họ lập anh ta làm vua trong một năm. Các vị vua mới đều được bợ đỡ, tôn vinh và vâng theo chẳng cần một thắc mắc gì hết trong 12 tháng. Tuy nhiên, đến cuối năm, họ bị trục xuất sang một đảo khác rồi bị bỏ ở đó cho tới chết. Chàng thuỷ thủ không thích như thế, nhưng anh ta là một vị vua rất thông minh. Mỗi ngày trong suốt sự trị vì của mình, anh ta kêu mọi người lại đóng các chiếc thuyền, trồng các loại cây ăn trái bên hòn đảo hoang kia, gieo các thứ ngũ cốc, dựng nhiều nhà ở… Đến cuối sự trị vì của mình, anh ta không bị trục xuất sang một hòn đảo có sự đói kém, mà sang một địa đàng vùng nhiệt đới. Đây là một thí dụ hay cho chúng ta. Nếu chúng ta tốn thì giờ ngay lúc bây giờ để theo đuổi khoái lạc, quyền lực, sự chấp nhận, may rủi và danh tiếng, chúng ta sẽ có rất ít hoặc chẳng có gì trong cõi đời đời. Nếu chúng ta tung đời sống mình vào cuộc theo đuổi sự công bình, chúng ta sẽ được ban thưởng cho đến đời đời. Chúa Jêsus phán: “Các ngươi chớ chứa của cải ở dưới đất, là nơi có sâu mối, ten rét làm hư, và kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy; nhưng phải chứa của cải ở trên trời, là nơi chẳng có sâu mối, ten rét làm hư, cũng chẳng có kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy” (Mathiơ 6.19-20).