Thứ Hai, 31 tháng 10, 2011

Bài 18: Mathiơ 5:17-26: "Những Việc Quan Trọng ..."

MATHIƠ – VUA CÁC VUA
SỨ ĐIỆP CỦA NHÀ VUA
Những việc
quan trọng
cần phải giải quyết
trước cả những điều
quan trọng khác
Mathiơ 5.17.26

1. Các nhà truyền đạo thật là sốt sáng. Chúng ta nghe những lời phê phán như: “Việc làm gì mà kỳ vậy, bạn chỉ làm mỗi tuần có một ngày thôi ư!” hoặc “Tôi muốn dân sự cần phải nghe bài giảng được rao ra ở đây”. Chúng ta nghe kể nhiều câu chuyện giống như câu chuyện kể trong ngày Chúa nhật nhạt nhẽo đến nỗi chỉ có một cụ già chuyên nuôi gia súc hưởng ứng mà thôi. Sau khi vị Mục sư giảng xong sứ điệp của mình, cụ già lẩm cẩm kia mới nói: “Mục sư ơi, khi chỉ có một con bò phải nuôi ăn, tôi không dành cho nó cả chiếc xe tải đâu!” Chúng ta nghe thấy những lời phê phán về sự dài dòng, nhạt nhẽo, giọng nói đều đều, hay lặp đi lặp lại… Sự thật đáng buồn về những điều chúng ta nghe nói đều là thực cả. Có một lý do cho điều đó.
2. Thường thì giảng có nghĩa là một vị Mục sư đọc một đoạn Kinh Thánh, rồi trong một lúc đưa ra ý kiến riêng của mình, dù thích hay không thích quan điểm chung của thế gian. Thêm vào đó là những lời khuyên phải trở nên người tốt, yêu thương nhau, dâng tiền bạc, và đưa dắt người bị hư mất. Loại rao giảng nầy không có quyền lực chi hết vì nhà truyền đạo chỉ nói về Lời của Đức Chúa Trời, ông ta không rao giảng Lời ấy.
Trong một bài viết có đề tựa là: “Giá trị của việc giảng dạy” (The Value of Expository Preaching and Teaching), Roger Johnson than phiền như sau: “Thường thì người ta đọc một đoạn Kinh Thánh cho hội chúng nghe, giống một bài quốc ca tấu lên trong các trận đấu thể thao vậy. Nó thúc đẩy mọi việc khởi động, nhưng nó chẳng dính dáng gì tới bài học cả. Thẩm quyền ở đàng sau việc rao giảng không nằm ở nhà truyền đạo, mà nằm trong các phân đoạn Kinh Thánh”.
3. Việc rao giảng chỉ có quyền lực khi nhà truyền đạo để cho Lời của Đức Chúa Trời thể hiện sự sống động. Đức Thánh Linh xức dầu cho loại sứ điệp nầy rồi điều khiển sứ điệp nhập tâm người nghe theo các phương thức mà nhà truyền đạo không mong đợi hoặc hiểu thấu. Việc giảng dạy Kinh Thánh là Kinh Thánh được tỏ ra qua nhân cách của nhà truyền đạo. John Scott có nói: “Nhà truyền đạo phải trở nên nhịp cầu bắc giữa Lời Đức Chúa Trời và dân sự của Ngài”.
4. Kinh Thánh đầy dẫy với những hình ảnh của các nhà truyền đạo nảy lửa. Có Giêrêmi đang khóc than khi ông rao giảng về tội lỗi của dân Ysơraên. Giôna – nhà truyền đạo lưỡng lự từng tạo ra “cuộc đổ bộ” đầu tiên từ dưới nước. Giăng Báptít trong bộ đồ kỳ cục đến rao giảng bên sông Giôđanh. Phierơ đã kêu gọi đoàn dân đông trong dịp Lễ Ngũ Tuần hãy ăn năn. Phaolô đã dẫn giải sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời với những con người tri thức giả tạo trên đồi Mars ở thành Athens. Tuy nhiên, không một người nào trong số các nhà truyền đạo nầy, sự rao giảng của họ có thể sánh với sự rao giảng của Đức Chúa Jêsus Christ, Con Đức Chúa Trời.
5. Đừng quên rằng Mathiơ 5-7 là một bài giảng. Chúng ta có thể đọc lời lẽ của phân đoạn nầy theo cách ôn tồn, nhưng Chúa Jêsus đã giảng dạy bằng quyền phép được Đức Thánh Linh xức dầu. Hãy chú ý lời bình ở cuối bài giảng trong 7.28-29.
6. “Bài Giảng Trên Núi” nầy đã bắt đầu với “Các Phước Lành” ở các câu 3-12, chúng mô tả các đặc điểm trong đời sống của một người tin Chúa. Kế đó Chúa Jêsus đã phán về việc trở nên “muối”“sự sáng” trong các câu 13-16. Điều nầy có ý nói đến ảnh hưởng của người tin Chúa trên người khác. Trong phân đoạn nầy và phần còn lại của chương, Chúa Jêsus dạy chúng ta về Kinh Thánh, là kim chỉ nam của đời sống tín đồ.
7. Hãy xét qua cùng với tôi ba nguyên tắc Kinh Thánh không thể chối cãi được.

I. KINH THÁNH CHUYÊN VỀ NỘI TẠI, CHỚ KHÔNG CHUYÊN VỀ NGOẠI TẠI (các câu 17-20).
A. Thẩm quyền của Kinh Thánh rất quan trọng.
1. Khi chúng ta nói tới Thẩm Quyền của Kinh Thánh, chúng ta muốn nói rằng Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời thánh khiết, có uy quyền, vô địch, không thể tranh cãi. Lời ấy không thể sai sót, và cảm thúc.
2. Lời lẽ của Chúa Jêsus đặc biệt quan trọng vì là Đức Chúa Trời, lời dạy của Chúa Jêsus là sự truyền đạt trực tiếp từ môi miệng của Đức Chúa Trời cho tấm lòng của con người. Hêbơrơ 4.12 chép: “Vì lời của Đức Chúa Trời là lời sống và linh nghiệm”.
3. Trong thời của chúng ta, có nhiều người xưng mình là Cơ đốc nhân đã đem lòng hồ nghi về thẩm quyền của Kinh Thánh. Là một Cơ đốc nhân, sao lại hồ nghi về Kinh Thánh chứ?.
B. Mối quan hệ của Chúa Jêsus với Kinh Thánh (các câu 17-18).
1. Không nghi ngờ chi nữa, sau khi nghe Các Phước Lành và sự dạy về “muối” , “sự sáng”, một số khán thính giả bắt đầu lấy làm lạ vì Chúa Jêsus dạy như có thẩm quyền của Kinh Thánh. Liệu Ngài có phải là thầy chữa lành đã xuất hiện để đương diện với lối sống buông thả của họ không? Đấy là lý do tại sao Chúa Jêsus phán: “Đừng tưởng ta đến để huỷ diệt luật pháp hay lời tiên tri”.
2. Mệnh đề “Luật pháp và lời tiên tri” đã được sử dụng khắp Tân ước để nói tới toàn bộ Cựu ước.
3. Chúng ta đang sống trong thời buổi mà người ta muốn gạt Kinh Thánh qua một bên và tin phần nầy và chối bỏ phần kia. Chúa Jêsus phán rằng Ngài đến không phải để huỷ diệt bất cứ phần nào. Ngài không huỷ phá “luật pháp và lời tiên tri”.
4. Ngài đến không phải “phá, song để làm cho trọn”. Hãy chú ý thể nào Các Phước Lành đều nói tới ngôi thứ ba (Phước cho những kẻ…”). Tiếp đến Chúa Jêsus mới nhấn mạnh ngôi thứ hai (“Các ngươi là muối… Các ngươi là sự sáng…”). Trong câu 17, Ngài phán trong ngôi thứ nhất: “Ta đến, không phải để phá, song để làm cho trọn”.
5. Chúa Jêsus đã làm ứng nghiệm Cựu ước theo 2 cách.
a. Thứ nhất, Ngài là sự ứng nghiệm các lời hứa của Cựu ước. Ngài là Đấng Mêsi mà Cựu ước đã nói trước trong nhiều cách thức khác nhau.
b. Thứ hai, Ngài là sự ứng nghiệm Cựu ước vì Ngài thể hiện trọn vẹn mọi đòi hỏi đạo đức của Cựu ước. Chúa Jêsus “vốn chẳng biết tội lỗi” (II Côrinhtô 5.21). Êsai 42.3 chép: “Người sẽ chẳng bẻ cây sậy đã giập, và chẳng dụt tim đèn còn hơi cháy”.
6. Chúa Jêsus hứa rằng mọi điều trong luật pháp sẽ “được ứng nghiệm”.
a. Chữ “chấm” tiêu biểu cho dấu nhỏ nhất trong mẫu tự Hybálai. Dấu nầy giống như dấu móc đơn vậy.
b. Chữ “nét” là một dấu nhỏ hơn. Giống như nét gạch ngang giữa hai chữ vậy.
c. Chúa Jêsus đang nói rằng Ngài tin vào Thẩm Quyền của Kinh Thánh thậm chí từng chấm từng nét một.
d. J.B. Phillips dịch: “Ta bảo đảm với các ngươi rằng, trong khi trời đất chưa qua đi, luật pháp sẽ không mất đi một dấu chấm hay dấu phết nào cho tới chừng mục đích của Kinh Thánh đã được trọn”.
7. Sẽ có một ngày khi “trời đất qua đi”. Hãy chú ý Chúa Jêsus đã phán “cho đến khi” chúng qua đi. Bao lâu chúng ta còn sống trong thế giới tội lỗi nầy, Kinh Thánh sẽ còn là một bằng chứng cho sự công bình của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, một ngày kia sẽ không còn cần tới Lời Đức Chúa Trời nữa. II Phierơ 3.13 chép: “Vả, theo lời hứa của Chúa, chúng ta chờ đợi trời mới đất mới, là nơi sự công bình ăn ở”.
C. Mối quan hệ của người tin Chúa với Kinh Thánh (các câu 19-20).
1. Hãy chú ý hai từ chính trong câu 19, “huỷ”“dạy”. Người nào “dạy” Lời của Đức Chúa Trời không phải là kẻ “huỷ” các điều răn của Đức Chúa Trời. Khi làm như thế, người ấy sẽ được gọi là “cực nhỏ trong nước thiên đàng”. Người sẽ có mặt trong nước thiên đàng, nhưng người sẽ chẳng có phần thưởng nào hết.
2. Ngược lại, người nào “giữ” theo ý muốn của Đức Chúa Trời rồi “dạy” Lời của Đức Chúa Trời sẽ được xưng là “lớn” trong nước của Đức Chúa Trời. Người sẽ được ban thưởng lớn lắm. Chúa Jêsus muốn chúng ta sống theo những điều chúng ta tin, ăn ở theo điều chúng ta nói!
3. Trong câu 20, Chúa Jêsus dạy rằng “sự công bình của chúng ta” phải trỗi hơn sự công bình của “các thầy thông giáo và người dòng Pharisi”.
a. “Các thầy thông giáo và người dòng Pharisi” là các cấp lãnh đạo trong thời đó. Họ ăn mặc trông rất tôn giáo, hành động trong một tư thế rất kỉnh kiền, và ăn nói bằng các âm điệu tôn giáo. Thường dân rất sợ họ.
b. Về bề ngoài, họ có đủ mọi thứ ấy. Còn bề trong, họ sống rất là tội lỗi. Chúng ta hãy để ý 15.7-9; 23.13-16a, 23-28…
Khi tôi còn nhỏ, tôi thường nhận ra những người chuyên nuôi heo để triển lãm. Họ rối lên với bầy heo trong nhiều tháng trời trước cuộc triễn lãm. Chúng được tắm rửa, chải lông, làm cho sạch sẽ để đi dự triển lãm. Tuy nhiên, khi chúng trở về với nông trại, chúng liền nhảy ngay vào vũng xình. Heo là heo vô luận chúng có được tắm rửa sạch sẽ đến ngần nào. Cũng một thể ấy, tội nhân là tội nhân vô luận bề ngoài có tôn giáo đến đâu đi chăng nữa!
4. Chúa Jêsus đang rao giảng rằng trừ phi đức tin của chúng ta trước hết là nội tại, chân thực, dù bề ngoài của chúng ta có ra sao đi nữa, vì chúng ta “chẳng có phương tiện gì để vào trong nước thiên đàng”.

II. GIẾT NGƯỜI THƯỜNG BỊ PHẠT BẰNG NGÔI LỜI, CHỚ KHÔNG BỊ PHẠT BẰNG GƯƠM GIÁO (các câu 21-22).
Trong các câu 17-20, Chúa Jêsus đã nói ra các giới hạn chung chung về Lời của Đức Chúa Trời. Trong phần còn lại của chương, Ngài sẽ tỏ ra cho chúng ta thấy rất đặc biệt SỐNG theo sự dạy của Kinh Thánh có ý nghĩa như thế nào! Ngài bắt đầu ở đây với quan niệm GIẾT NGƯỜI. Trong câu 27, Ngài phán về TỘI TÀ DÂM. Trong câu 31, Ngài dạy về SỰ LY DỊ. Trong câu 33, Ngài dạy về SỰ THỀ THỐT. Trong câu 38, Ngài dạy về SỰ ĂN MIẾNG TRẢ MIẾNG. Trong câu 43, Ngài dạy về TÌNH YÊU THƯƠNG. Trong mỗi chỗ đó, Chúa Jêsus phán: “Các ngươi có nghe lời phán rằng… Song ta phán cho các ngươi biết…”.
A. Cựu ước dạy “Ngươi chớ giết người” và luật dân sự dạy rằng một người sẽ “bị toà án (của dân sự) xét đoán”.
1. “Ngươi chớ giết người” ra từ 10 Điều Răn (Xuất Êdíptô ký 20.13). Điều nầy có nghĩa là đã dự tính trước cướp lấy mạng sống của người khác.
2. Khi thời gian trôi qua, luật dân sự thêm “bị toà án xét đoán” cho tội phạm. Người dòng Pharisi dạy như vậy.
B. Chúa Jêsus còn đi xa hơn các điều răn ngoại tại đến với bên trong tấm lòng. Lời lẽ của Ngài trong câu 22 tiệm tiến lên cao dần. Ngài đề ra ba bản cáo trạng.
1. Thứ nhất, Ngài phán: “Hễ ai giận anh em mình thì đáng bị toà án xử đoán”. Đây là cơn giận vượt quá các lằn ranh cho phép. Êphêsô 4.26 chép: “Ví bằng anh em đang cơn giận, thì chớ phạm tội”. Giận “không lý do” là cơn giận không công bình, nó ra từ một tâm linh cay đắng. Người nầy sẽ bị đưa ra “toà” hay toà án dân sự.
2. Thứ hai, Ngài phán: “Ai mắng anh em mình rằng: Raca, thì đáng bị toàn công luận xử đoán”. “Raca” là môt từ Aram có nghĩa là “cái đầu trống rỗng”. Chúng ta sử dụng các từ ngữ tương tự “đần độn, ngốc nghếch…”. Khi bạn nỗi giận đủ với ai đó, rồi suy nghĩ hay nói: “Mày là thằng ngốc trí óc không bình thường!” Bạn đã đi quá xa rồi.
3. Thứ ba, Ngài phán: “Ai mắng anh em mình là đồ điên! Thì đáng bị lửa địa ngục hành phạt”.
a. “Đồ điên” ra từ chữ moros, từ đó chúng ta mới có chữ “moron”, nghĩa là “khờ dại, thoái hoá”. Trong thời buổi đó, chữ nầy được dùng để mô tả ai đó đã phá sản về mặt đạo đức.
b. Khi cho rằng ai đó về mặt đạo đức là một sự thất bại hoàn toàn, và vô dụng cho Đức Chúa Trời hay cho con người, là tự lập mình làm quan án, mà thực sự chúng ta không phải là quan án.
c. Người nào nói như vầy, sẽ không nhất thiết phải đi địa ngục, song “đáng bị lửa địa ngục hành phạt”. Một hành động như vậy là tội lỗi sẽ khiến cho người ta đi địa ngục.
C. Giận khó mà tự chủ được.
Trong tuần nầy, tôi sẵn sàng rời Hội thánh để đi một chuyến qua đêm khi một trong các em học sinh quyết định quấy rối tôi. Tôi đã thất bại, không kềm được và đã nổi giận dữ lên. Khi tôi trở về, tôi đến xin lỗi em đó.
1. Giận như thế đủ xấu rồi, nhưng khi chúng ta lộ ra sự giận đó, thì giống như nhắm khẩu súng vào đầu ai đó hoặc đâm ngay tim họ. Lời nói của chúng ta trong cơn giận có thể giết chết tâm linh của người khác.
2. Có khi chúng ta bị cám dỗ mà suy nghĩ: “Nó đáng phải chịu như thế” hay “Tôi nói mà, đáng đời lắm”. Nếu chúng ta thực sự muốn sống một đời sống Cơ đốc, chúng ta đừng bao giờ lộ ra cơn giận dữ.
Clarence Darrow - một vị luật sư nổi tiếng về tội phạm nói: “Mỗi người là một tên giết người có khả năng. Tôi chưa giết ai, nhưng tôi thường thấy thoả lòng khi nghe tiểu sử của người chết”. I Giăng 3.15 chép: “Ai ghét anh em mình, là kẻ giết người; anh em biết rằng chẳng một kẻ nào giết người có sự sống đời đời ở trong mình”.

III. NHỮNG CUỘC TRANH CÃI NÊN HƯỚNG VỀ SỰ LÀM HOÀ, CHỚ ĐỪNG HƯỚNG TỚI SỰ TRẢ THÙ (các câu 23-26).
Chúa Jêsus giảng về việc làm cho những cuộc tranh cãi phải êm đi. Ngài đưa ra cho chúng ta 2 ví dụ. Bối cảnh tôn giáo là ví dụ thứ nhất, “bàn thờ” trong các câu 23-24. Bối cảnh thứ hai là với “kẻ nghịch”.
A. Sự hoà thuận trong Hội thánh (các câu 23-24).
1. Chúa Jêsus phán rằng nếu bạn “dâng của lễ nơi bàn thờ” và trong khi bạn có mặt ở đó bạn “nhớ lại anh em có điều gì nghịch cùng mình” bạn phải “để của lễ trước bàn thờ” rồi “trở về giảng hoà với anh em” trước khi bạn “đến dâng của lễ”.
2. Hãy hình dung ra bối cảnh nầy. Bạn đến nhà thờ, nhưng khi buổi thờ phượng bắt đầu, bạn nhớ lại mình đã mắc lỗi trong cả tuần lễ. Bạn không thể tập trung vào sự cầu nguyện hay ca hát vì Đức Thánh Linh đang thuyết phục bạn về tội lỗi của bạn. Vậy thì bạn cần phải đứng dậy, trở lại nơi xe rồi đến gặp người đó mà làm hoà lại.
3. Người ấy có thể là một người bạn, một người cùng làm ăn, một nhân công, một tín hữu, một người bạn đời, một đứa con, một…
4. Khi bạn làm hoà xong, như Swindoll nói: “Mục tiêu của quý vị là đổi thù thành bạn”. Việc nầy phải làm ngay lập tức thôi.
5. Nếu bạn không làm hoà, bạn đang bất tuân đối với Đức Chúa Trời và thêm nhiều việc vô tích sự vào đời sống của bạn. Sự mất lòng ấy chỉ quấy rối và tạo ra sự cay đắng mà thôi.
6. Bạn không thể hoà lại với Đức Chúa Trời nếu không làm hoà với người khác.
Khi Leonardo da Vinci đang vẽ bức Tiệc Thánh, ông có một sự tranh cãi ghê gớm lắm với một hoạ sĩ kia. Leonardo đã giận đến nỗi ông quyết định vẽ khuôn mặt kẻ mình ghét thành khuô mặt của Giuđa. Làm như thế khuôn mặt của vị hoạ sĩ bị ghét kia sẽ được giữ luôn trong khuôn mặt của người môn đồ có tánh phản bội. Khi Leonardo đã vẽ xong Giuđa, ai nấy dễ nhận ra khuôn mặt của vị hoạ sĩ kia với người mà Leonardo đã cãi cọ. Ông cứ tiếp tục làm công việc vẽ tranh của mình. Nhưng khi ông cố gắng càng nhiều, ông không thể vẽ được khuôn mặt của Đấng Christ. Có cái gì đó đã giữ ông lại, không vẽ được. Sau cùng ông quyết định thái độ thù ghét của mình đối cùng vị hoạ sĩ kia chính là vấn đề. Ông đã làm việc qua thái độ thù ghét bằng cách hoạ khuôn mặt của Giuđa, ông thay thế mặt của người bạn hoạ sĩ của mình thành một khuôn mặt khác. Chỉ khi đó ông mới có thể hoạ được khuôn mặt của Chúa Jêsus và hoàn thành kiệt tác ấy.
B. Làm hoà với người thế gian (các câu 25-26).
1. Chúa Jêsus cũng khuyên chúng ta phải “lập tức hoà với họ, khi đi đường với kẻ nghịch mình”. nói cách khác, chúng ta phải luôn luôn tìm cách “đừng ra toà”.
2. Chúng ta bị cám dỗ khi nghĩ rằng vì chúng ta đối xử với người không tin Chúa không làm hoà cũng không sao. Không phải như vậy đâu. Dân sự của Đức Chúa Trời cần phải sống cho Đức Chúa Trời ở trước mặt mọi người.
3. Chúng ta sống trong thời buổi thường hay kiện cáo. Người ta rất muốn kiện tụng nhau. Có phải bạn không? Có phải bạn có tên tuổi của vị luật sư trên danh bạ điện thoại của mình? Tôi mong là không có.
4. Lý do chúng ta không làm hoà là vì sự kiêu ngạo. Chúa Jêsus nhắc cho chúng ta nhớ trong phần cuối của câu 25 và câu 26 rằng có khi quan toà không nhìn sự việc theo cách nhìn của mình.
5. Sự kêu gọi của Đức Chúa Trời cho đời sống chúng ta là phải làm hoà chớ không phải ăn miếng trả miếng.
PHẦN KẾT LUẬN:
1. Các nguyên tắc của Kinh Thánh trước nhất không phải ngoại tại, mà là nội tại. Tôn giáo bề ngoài, giống như bề ngoài của người dòng Pharisi vốn không có hậu. Thực ra bề ngoài đó sẽ đưa bạn xuống địa ngục mà thôi. Bạn có đức tin chân thật không?
2. Những lời nói giận dữ có thể giết chết tâm linh của người khác. Phải biết kềm chế tánh khí của bạn. Hãy coi chừng lời lẽ châm biếm. Hãy quyết định để cho Đức Chúa Trời giúp bạn thắng hơn tật nói năng trong lúc giận dữ.
3. Khi có sự lỗi gì, hãy tìm cách làm hoà lại, chớ đừng báo thù. Hãy làm theo y như thế. Đừng quá nhỏ nhen. Đừng để cho sự cay đắng ngấm sâu trong linh hồn bạn như một sự nguội lạnh bám chặt mãi không chịu buông ra. Hãy thu nhận cho mình một lượng lớn các đức tính tốt trong Lời của Đức Chúa Trời.
Kinh Thánh cung ứng cho con người sự dẫn dắt mà người cần vì đó là Lời bất biến của Đức Chúa Trời, có ích cho mọi lứa tuổi và mọi thế hệ. Tôi từng đọc về một vị nhạc sĩ, ông nầy đi gặp vị giáo sư nhạc của mình đã luống tuổi rồi. Trong khi thăm viếng, ông thầy nhiều kinh nghiệm kia đánh vào thanh âm rồi nói: “Đó là nốt LA”. Ngay lúc đó, từ dưới nhà có tiếng hát của người ca sĩ. “Cô ấy hát the thé”, vị giáo sư già kia nói. Ông dừng trong một lúc, rồi phát lại thanh âm kia một lần nữa. Lần thứ hai ông gõ thanh âm ấy, ông nói: “Đây là nốt LA. Luôn luôn là như vậy, luôn luôn với 400 lần nó rung trong một giây đồng hồ. Từ bâu giờ cho tới 5.000 năm nữa cũng y như thế”. Và cũng một thể ấy với Lời của Đức Chúa Trời: Lời ấy bền vững và không hề thay đổi.


Thứ Tư, 26 tháng 10, 2011

Bài 17: Mathiơ 5:13-16: "Một Ảnh Hưởng Sáng Chói, Làm Lay Chuyển"


MATHIƠ – VUA CÁC VUA
SỨ ĐIỆP CỦA NHÀ VUA
Một ảnh hưởng sáng chói,
làm lay chuyển

Mathiơ 5.13-16

1. Trong thành phố nhỏ kia có một thứ máy đã làm bật ra một số đòi hỏi về ngân sách của thành phố hầu mở rộng hoạt động của nó. Đã có một số chống đối như thường lệ, họ cho rằng công ty chẳng có quan trọng chi hết, và thành phố sẽ hoạt động bình thường mà chẳng cần tới sự hiện diện của máy móc đó. Để chỉ ra ảnh hưởng của nó, công ty có ý định trả lương cho công nhân bằng đôla bạc thay vì tiền mặt. Những đồng đôla bạc đã bắt đầu lưu hành ở quầy thu tiền của các cửa hàng, ở các trạm xe bus, nhà hát và v.v… Ở đâu có những đồng đôla bạc lưu hành, chúng ta cũng dễ dàng trong cách chuyển đổi. Ảnh hưởng của công ty được công chúng biết tới nhiều hơn, và sự chống đối kia đã rút lại.
2. Bạn mô tả “ảnh hưởng” như thế nào? Tự điển Webster định nghĩa theo cách nầy: “Khả năng tạo ra một hiệu quả theo cách gián tiếp hay không thể nắm bắt được”. Quả là mơ hồ, có phải không? Tôi nghĩ ảnh hưởng là: “khả năng khiến cho ai đó nhìn thấy sự việc theo quan điểm của bạn”.
3. Nếu người ta đến yêu cầu bạn liệt kê ra một người nào đó có ảnh hưởng chẳng hạn, bản danh sách của bạn phải bao gồm những vị Tổng Thống, các nhà học giả, Tướng lãnh, những chính trị viên cùng những người (nam và nữ) có quyền thế khác chẳng hạn. Tuy nhiên, nếu bạn suy nghĩ về bảng danh sách ấy, một số người có ảnh hưởng nhất ít ra là người bị để ý hay được tán thưởng nhiều nhất.
A. Một người mẹ vốn kiên nhẫn yêu thương và dạy dỗ con cái của bà. Một người cha, chẳng có quyền thế cũng không có danh vọng gì cả, nhưng dạy dỗ con cái của mình bằng cách nêu cho chúng một tấm gương tin kính, bền đỗ.
B. Một huấn luyện viên thể thao trong trường đại học chuyên tâm vào việc gây dựng những người nam người nữ hơn là gây dựng tên tuổi cho chính mình.
C. Một vị giáo viên Trường Chúa Nhật nhìn thấy những học viên trẻ tuổi của mình không những là hạng ngôi sao trên bảng điểm, mà còn là những nhà lãnh đạo thuộc linh trong tương lai nữa.
D. Một người lân cận trầm lặng luôn luôn đi nhà thờ đều đặn vào ngày Chúa nhật và luôn luôn bằng lòng chìa tay ra giúp đỡ, cho một món đồ, hay lấy thư dùm.
4. Có khả năng người có ảnh hưởng nhất trong đời sống bạn là Cơ đốc nhân. Hãy xem lại các đức tính của người tin Chúa trong 8 phước lành (các câu 3-12). Người nào sống như thế không thể giúp chi được, song đang ảnh hưởng vào nhiều người khác!
5. Đây là một câu hỏi khó: Có phải bạn đang ảnh hưởng người khác vì cớ Đấng Christ không? Có phải đức tin bạn giống như những đồng đôla bạc trong thành phố nhỏ kia chăng? Ảnh hưởng ấy có rõ ràng trong từng chi tiết của đời sống bạn chăng?
6. Trong phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta, Chúa Jêsus chỉ ra cho chúng ta thấy hai cách để ảnh hưởng vào người khác, lắc một ít muối và chiếu ra một ít sự sáng.

I. LẮC MỘT ÍT MUỐI (câu 13).
A. Những người tin Chúa là “muối của đất”. Muối góp phần ít nhất ba mục đích.
1. Thứ nhất, muối có tính cách bảo tồn.
a. Trước thời kỳ có tủ lạnh, thịt được sắp thành từng lớp ướp muối để bảo tồn thịt cho tới chừng nó được đem ra dùng.
b. Trong thời kỳ khai phá, các tổ phụ chúng ta đã băng ngang qua phía Tây mang theo thịt đã được ngâm trong nước muối để bảo tồn nó cho lâu dài như có thể được.
c. Thậm chí tôi có nghe nói tới một nhà kho hiện đại ở Kansas, ở đây mọi thứ từ tài liệu của toà án tới phim ảnh gốc đã được lưu giữ trong một hình thức ướp muối.
d. Cơ đốc nhân lo bảo tồn xã hội. Chúng ta thối lui trước điều ác và chống lại tội lỗi. Hãy tưởng tượng một thế giới chẳng có ảnh hưởng của Cơ đốc nhân xem.
2. Thứ hai, muối làm cho có thêm mùi thơm. Bạn biết rõ là chỉ trộn một ít muối sẽ làm cho có thêm mùi thơm cho một đĩa thức ăn. Muối làm thêm một chút “ngon lành” cho thức ăn của chúng ta. Cơ đốc nhân luôn luôn đối diện với các quan điểm của thế gian. Chúng ta đang làm nền văn hoá của chúng ta được thơm hơn lên.
Một vị vua thời Trung cổ đã hỏi 3 người con gái, không biết họ có yêu thương ông ta nhiều hay không!?! Hai trong số đó đáp rằng họ quan tâm đến ông hơn cả vàng và bạc trên thế gian nầy. Còn cô con gái út, cô ta nói cô yêu ông giống như yêu muối vậy. Nhà vua không đẹp lòng với câu trả lời của nàng, vì ông xem muối là thứ rất ít giá trị. Bà đầu bếp nghe được cuộc trò chuyện, vốn biết rõ lời đáp của đứa con có nhiều ý nghĩa hơn người cha có thể tưởng tượng. Mặc dù cô con gái không dám nói cho nhà vua biết rõ vấn đề, bà ta khuyên phải tìm cách nào đó để làm sáng tỏ ý nghĩa thực lời lẽ của đứa con gái. Sáng hôm sau lúc ăn điểm tâm, bà đã giữ muối lại không nêm vào thứ bà đã dọn, và bữa ăn nhạt nhẽo đến nỗi nhà vua không muốn dùng bữa nữa. Khi đó ông ta mới nhận ra ảnh hưởng trọn vẹn lời nói của con gái mình. cô ấy yêu ông nhiều đến nỗi chẳng có gì là ngon lành hết nếu chẳng có ông!
3. Thứ ba, muối tạo ra cơn khát.
a. Người nào phơi nắng quá mức đều phải ngậm muối để làm tăng thêm sự khát nước của thân thể họ. Cơn khát do muối gây ra ngăn ngừa tình trạng mất nước và sự chết.
b. Chúng ta cần phải sống khác biệt với những người xung quanh, hầu cho nhiều người sẽ khao khát cung cách sống của chúng ta.
Vào năm 1985, một con cá voi dài 40 foot, nặng 45 tấn có tên là Humphrey đã đổi hướng sai khi di trú dọc theo bờ biển California. Nó trở thành một con vật nổi tiếng của cả nước khi nó chuyển hướng vào Vịnh San Francisoco, bơi lội dưới cầu Golden Gate, và đi suốt 70 dặm dòng sông đó. Trong hơn 3 tuần lễ, Humphrey đã không chịu làm theo mọi nổ lực để đưa nó trở ra với vùng biển mặn. Sau cùng, các nhà nghiên cứu hải sinh học đã tìm cách nhữ nó với các âm thanh đã được ghi băng khi nuôi loài cá voi. Cách làm nầy đã có hiệu lực. Humphrey đã đáp lại với “loài cá sung sướng” kia, rồi lội theo “chúng” trở ra lại Thái Bình Dương. Cách nhữ bằng âm thanh vui sướng tác động không những các loài cá voi đi lạc, nhưng cũng có tác động với con người hư mất nữa. Đức Chúa Trời làm cho đời sống của các thánh đồ ra lôi cuốn đối với những người chưa nhìn biết Ngài. Thánh Linh Ngài đem lại sự thuyết phục và tạo ra một sự khát khao đối với những gì Cơ đốc nhân đang có.
B. Chúa Jêsus phán chúng ta là “muối của đất”.
1. Trong thời của Chúa Jêsus, muối là một mặt hàng có giá trị. Các binh lính La mã thường trả tiền để mua muối. Đây là chỗ mà mệnh đề “muối ấy không dùng chi được nữa” bắt nguồn. Là muối, quý vị rất có giá trị. Quý vị là khâm sai của Đức Chúa Trời.
2. Ngài không phán chúng ta phải trở thành muối, chúng ta có thể trở thành muối , hoặc chúng ta sẽ là muối. Ngài phán chúng ta đang “là” muối.
3. Quý vị không cần phải cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin biến con mặn như muối, xin giúp con trở thành một ảnh hưởng”. Quý vị là muối. Quý vị là một ảnh hưởng. Chỉ cần lắc nó lên mà thôi!
4. Như muối là một chất có tính cách bảo tồn và làm cho có thêm mùi thơm, chúng ta đang bảo tồn và làm cho xã hội có mùi thơm. Muối ở trong bình sữa trứng là muối vô dụng. Hãy làm cho người ta nhìn biết đức tin của quý vị. Hãy thể hiện ra đức tin ấy và đức tin sẽ ảnh hưởng nhiều người khác!
C. Chúa Jêsus cũng phán rằng muối đôi khi “mất mặn đi”.
1. Muối hay Clorua Natri là một hợp chất hoá học. Hợp chất nầy chưa thực sự “mất mặn” đâu. Tuy nhiên, khi nó bị lấm với đất, cát hay các chất bẩn khác, quý vị không thể nếm được muối đó nữa.
2. Chúa Jêsus phán muối đó “không dùng chi được nữa” (Chúng ta sử dụng câu nói nầy để mô tả một người biếng nhác). Muối đó chỉ “phải quăng ra ngoài và bị người ta đạp dưới chân”.
3. Một số Cơ đốc nhân đánh mất ảnh hưởng của họ cho Đấng Christ. Họ đã bị bán vào trong thế gian, họ chẳng có gì khác biệt nữa. Họ không còn mặn như muối nữa.
Thật thú vị thay, theo tờ Christianity Today (Cơ đốc giáo ngày nay), một phần tư cư dân của Hoa kỳ đã xưng nhận họ có kinh nghiệm biến đổi khi nghe giảng tin lành. William Iverson lưu ý: “Một cân thịt chắc chắn bị ảnh hưởng bởi ¼ cân muối. Nếu muối của đất nầy chính là Cơ đốc giáo, tác dụng của muối mà Chúa Jêsus đã nói tới nằm ở đâu?”

II. CHIẾU RA MỘT TIA SÁNG (các câu 14-16).
A. Chúa Jêsus phán rằng chúng ta là “sự sáng của thế gian”.
1. Chúng ta là “muối” và là “sự sáng”. Có một sự khác biệt. Muối tác động cách công khai. Muối tác động từ bên trong đang khi ánh sáng tác động từ bên ngoài. Muối là ảnh hưởng gián tiếp của tin lành, một lối sống tin kính. Sự sáng là ảnh hưởng trực tiếp của Tin lành, làm chứng đặc biệt cho người ta biết về Đức Chúa Jêsus Christ.
2. Cơ đốc nhân là “sự sáng” của Đức Chúa Trời, là một lẽ đạo phổ thông trong Kinh Thánh.
a. Trong Thi thiên 36.9, Đavít nói: “Vì nguồn sự sống ở nơi Chúa; Trong ánh sáng Chúa chúng tôi thấy sự sáng”.
b. I Giăng 1.5-7 chép: “Đức Chúa Trời là sự sáng, trong Ngài chẳng có sự tối tăm đâu”. Câu 7 chép: “nếu chúng ta đi trong sự sáng cũng như chính mình Ngài ở trong sự sáng, thì chúng ta giao thông cùng nhau; và huyết của Đức Chúa Jêsus, Con Ngài, làm sạch mọi tội chúng ta”.
c. Thi thiên 119.105 chép: “Lời Chúa là ngọn đèn cho chơn tôi, ánh sáng cho đường lối tôi”.
d. Chúa Jêsus đã đến “Để soi những kẻ ngồi chỗ tối tăm và trong bóng sự chết, Cùng đưa chân chúng tôi đi đường bình an”.
e. Êphêsô 5.8 chép: “Vả, lúc trước anh em đang còn tối tăm, nhưng bây giờ đã nên người sáng láng trong Chúa. Hãy bước đi như các con sáng láng”.
f. I Phierơ 2.9 chép chúng ta là “dòng giống được lựa chọn, là chức thầy tế lễ nhà vua, là dân thánh là dân thuộc về Đức Chúa Trời, hầu cho anh em rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi anh em ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài”.
g. Philíp 2.15 chép chúng ta “ở giữa dòng dõi hung ác ngang nghịch, được nên con cái của Đức Chúa Trời, không vít, không tì, không chỗ trách được, lại giữa dòng dõi đó, giữ lấy đạo sự sống, chiếu sáng như đuốc trong thế gian”.
3. Mục đích của sự sáng là xua tan đi bóng tối tăm.
a. Chúng ta được kêu gọi để chiếu sáng vào bóng tối tăm. C.T. Studd viết: Có người muốn sống trong âm thanh của Hội thánh hay tiếng chuông nhà thờ; tôi muốn tránh khỏi địa ngục.
b. Có nhiều lần chúng ta chiếu ánh sáng cho nhau. Chúng ta có nhiều đội có đèn chiếu sáng. Chúng ta tích trữ sự sáng.
B. Chúa Jêsus cung ứng hai trường hợp về “sự sáng của thế gian”.
1. Thứ nhất, chúng ta cần phải sống giống như một “thành” được thắp sáng. Chúa Jêsus phán: “một cái thành ở trên núi thì không khi nào bị khuất được”.
a. Người nào là môn đồ thật của Chúa Jêsus sẽ tỏ ra minh bạch cho mọi người. William Barclay nói: “Không có một việc gì là môn đồ kín nhiệm cả, vì sự kín nhiện huỷ phá chức năng môn đồ, hoặc chức năng môn đồ tiêu diệt sự kín nhiệm”.
b. Nếu quý vị không phiền khi làm chứng cho người ta về đức tin của quý vị nơi Đấng Christ, có nhiều cơ hội cho họ nhìn biết đức tin đó.
c. Có người than phiền với tôi đang làm việc hoặc sinh sống ở nơi có nhiều người không tin Chúa vây quanh. Họ ao ước họ được sống với Cơ đốc nhân. Đừng than phiền nữa! Hãy chiếu ra ánh sáng của quý vị đi! Đúng là một cơ hội.
d. Một “thành” có rất nhiều ngọn đèn. Có lẽ thành ấy tiêu biểu cho một nhà thờ, mỗi tín hữu lo chiếu ra ánh sáng của mình (nam hay nữ) cùng với nhiều người khác.
2. Thứ hai, chúng ta cần phải sống như một “ngọn đèn” trong nhà của mình.
a. Một “ngọn đèn” trong thời của Chúa Jêsus chỉ là một quả bóng nhỏ chứa dầu ôlive và có một ngọn bấc bằng vải. Đây là phương tiện chiếu sáng duy nhất trong một gia đình sau khi mặt trời lặn.
b. Chúa Jêsus phán rõ ràng rằng không ai “thắp đèn” mà đem “để dưới cái thùng” bao giờ. Alexander Maclaren nói rằng nếu quý vị thắp một ngọn đèn rồi để dưới cái thùng, một trong hai việc sẽ xảy ra. Ngọn lửa một là bị dập tắt hoặc nó sẽ đốt “cái thùng” cháy bùng lên!
c. Thật là buồn cười khi thắp một ngọn đèn rồi đem giấu nó đi. Mục đích của ngọn đèn là “soi sáng mọi người ở trong nhà”. Đậy ngon đèn bằng cái thùng là ngược lại với mục đích của nó.
d. Quý vị đừng để ngọn đèn ở dưới cái thùng, mà để trên “chân đèn” để cho ai nấy đều trông thấy.
e. Có nhiều Cơ đốc nhân đang là “ngọn đèn ở dưới cái thùng”. Họ đi vòng quanh che giấu đức tin của họ để chẳng có ai nom thấy đức tin đó. Họ đang sống vô dụng cho Đức Chúa Trời giống như một ngọn đèn đang đặt dưới cái thùng. Chúa Jêsus đã cứu quý vị để cho quý vị phải soi sáng!
C. Chúa Jêsus khích lệ chúng ta phải “soi sự sáng [mình] trước mặt người ta”.
1. Khi đèn của chúng ta chiếu sáng, người ta sẽ nhìn thấy “các việc lành” của chúng ta.
a. Từ ngữ “lành” ở đây không nhấn mạnh vào tính chất, mà nhấn mạnh ngọn đèn sáng đang lôi cuốn. Chúng ta phải đóng ngoặc kép “thấy những việc lành của các ngươi”.
b. Khi chúng ta sống cởi mở và thành thật cho Đức Chúa Jêsus Christ, người ta sẽ trông thấy một nét đẹp trong đời sống của chúng ta. Họ sẽ để ý tới sự nhã nhặn, nụ cười, thái độ biết ơn, sự bình an, sự phước hạnh, sự giúp đỡ của chúng ta… Họ muốn hỏi: “Tại sao quý vị lại sống được như thế chứ?”
c. Hãy suy nghĩ về điều đó, khi quý vị sống trong chỗ tối tăm, mọi con mắt đều hướng về sự sáng, cho dù đó là một ánh sáng nhỏ nhoi.
Giáo sư Kinh Thánh Keith Brooks vừa giảng xong cho một lớp các thương gia về trách nhiệm của Cơ đốc nhân phải trở thành “sự sáng” trong thế gian. Ông nhấn mạnh rằng người tin Chúa cần phải phản chiếu Sự Sáng của thế gian, là Chúa Jêsus. Sau khi hết giờ, có một tín hữu đến tỏ cho ông biết một kinh nghiệm mà ông đã có tại nhà của mình trước lẽ thật ấy. Ông nói rằng khi ông bước vào tầng hầm, ông có một sự khám phá rất thú vị. Một số quả khoai tây đã đâm chồi trong góc tối của căn phòng. Lúc đầu ông không hình dung được làm sao chúng hấp thụ được đủ ánh sáng để mọc lên. Kế đó ông nhìn thấy có ai đó đã treo ấm nước bằng đồng đỏ từ trần nhà gần cửa sổ của hầm rượu. Cái ấm bóng láng đến nỗi nó phản chiếu các tia sáng của mặt trời vào mấy củ khoai tây. Vị thương gia nói với Brooks: “Khi tôi trông thấy sự đó, tôi nghĩ, tôi không phải là nhà truyền đạo hay một giáo sư vớii khả năng khai thác Kinh Thánh, nhưng ít nhất tôi có thể trở thành cái ấm bằng đồng nắm bắt được các tia sáng của Đức Chúa Con rồi phản chiếu ánh sáng của Ngài cho người nào đang ở trong góc tối tăm”.
2. Khi ánh sáng của chúng ta chiếu ra, người ta sẽ “ngợi khen Cha các ngươi [chúng ta] ở trên trời”.
a. Chúng ta không chiếu ánh sáng ra cho chính mình, mà vì sự khen ngợi Đức Chúa Trời. Chúng ta không sống cho Đấng Christ [muối] và giảng cho Đấng Christ [sự sáng] để lôi kéo người ta chú ý về mình.
b. Chúng ta soi sáng vì chúng ta muốn người ta nhìn biết “Cha chúng ta ở trên trời”.
c. Quý vị có thấy Chúa Jêsus đưa ra một lời bảo đảm không? Khi họ “thấy những việc lành của các ngươi, và ngợi khen Cha các ngươi ở trên trời”. Chúa Jêsus có ý nói rằng có ai đó chưa được cứu, nhưng có người sẽ được cứu! Đừng đứng trên con đường của những người sẽ được cứu! Hãy chiếu sáng ra!

III. LỜI KHUYÊN VỀ VIỆC LẮC VÀ CHIẾU SÁNG.
A. Đừng áp đảo người ta với đức tin của quý vị.
1. Khi quý vị muốn lắc muối lên, quý vị đừng để cho đồ ăn không có nêm nếm gì cả. Quý vị dùng ít muối trước đã. Đừng chất đống các tài liệu chứng đạo, các băng ghi âm truyền giảng, và làm chứng cho bạn bè mình, đừng làm như thế. Hãy tìm thời điểm sao cho thích ứng.
2. Khi quý vị bật đèn lên, đừng chiếu thẳng vào mắt bạn bè mình, bạn sẽ làm cho mắt họ bị quáng lên. Hãy cung ứng ánh sáng cho đúng vị trí, đúng thời diểm. Nếu quý vị đang chiếu sáng, người ấy sẽ nhìn thấy ánh sáng đó.
3. Mục tiêu là, đừng làm ngập đầu họ với Tin lành. Mặt khác, đừng quá rụt rè mà chẳng làm chứng cho họ nghe biết về Đấng Christ. Hãy tạo ra một sự cân đối.
B. Đừng quên rằng những người chưa tin Chúa, họ đang quan sát quý vị từng phút một đấy!.
Một vị Mục sư đang dựng lên một giàn mắt cáo bằng cây để nâng cây nho đang leo lên cao. Khi ông vừa làm xong, ông để ý thấy một đứa trẻ đang nhìn xem ông làm. Đứa bé kia chẳng nói một lời, vì vậy nhà truyền đạo cứ tiếp tục công việc, ông nghĩ đứa trẻ rồi cũng sẽ bỏ đi thôi. Nhưng nó không bỏ đi. Nghĩ chắc trong lòng rằng công việc mình làm sẽ được khen ngợi, vị Mục sư nói: “Nào, con trai, hãy cho biết vài ý kiến về việc làm vườn xem!” Nó đáp: “Không, con đang đợi nghe vị Mục sư nói gì khi ông ta đập cái búa lên ngón tay cái của mình”.
C. Đừng lo nếu quý vị chưa thành công tức thì.
Khi ký giả Clarence W. Hall theo các đội quân Mỹ qua Okinawa vào năm 1945, ông và tài xế xe jeep đến một thị trấn nhỏ có sinh hoạt như một điển hình tốt cho cộng đồng Cơ đốc. Ông viết: “Chúng tôi đã nhìn thấy nhiều làng mạc ở Okinawa… ăn mặc nhếch nhác và thất vọng; ngược lại, ngôi làng nầy chiếu sáng như một viên kim cương ở trong đống phân chuồng. Chúng tôi được tiếp đón khắp nơi bằng nụ cười và những cái cúi đầu chào hữu nghị. Những cụ già tự hào chỉ cho chúng tôi thấy nhà cửa sạch sẽ, những cánh đồng nấc thang… những nhà kho và vựa lúa, nhà máy đường đắt tiền của họ”. Hall nói rằng ông không thấy nhà tù hay kẻ say sưa nào, và tình trạng ly dị không thấy có trong ngôi làng nầy. Người ta cho ông hay cách đấy 30 năm, có một giáo sĩ Mỹ đã đến đây. Trong khi ngụ lại trong làng, ông đã dẫn dắt hai cư dân trong làng tin theo Đấng Christ rồi để lại cho họ một quyển Kinh Thánh tiếng Nhật. Các tân tín hữu mới nầy đã nghiên cứu Kinh Thánh rồi khởi sự dẫn dắt dân làng họ theo Chúa Jêsus. Tài xế xe jeep của Hall nói ông rất ngạc nhiên khi thấy sự khác biệt giữa ngôi làng nầy cùng các làng mạc khác quanh đó. Ông cho biết: “Bấy nhiêu đó chỉ do một quyển Kinh Thánh và hai ông cụ muốn sống giống như Chúa Jêsus mà thôi. Vị giáo sĩ có lẽ chưa hề biết tầm cỡ ảnh hưởng của ông”.