Thứ Sáu, 30 tháng 3, 2012

Bài 25: Mathiơ 6:25-34: "Thắng Hơn Lo Lắng"


MATHIƠ - VUA CÁC VUA
Thắng hơn lo lắng
Mathiơ 6.25-34
1. Trải qua nhiều tuần lễ, chúng ta đã nghiên cứu về Bài Giảng Trên Núi, chúng ta đã nhìn thấy Chúa Jêsus chỉ ra tình trạng giả hình trong nhiều lãnh vực khác nhau. Chúng ta đã nhìn thấy sự giả hình của tư dục bên trong, của cơn giận dữ không giải quyết được, của những lời cầu nguyện thành kính, của sinh hoạt tôn giáo phục vụ bản ngã và sự kiêng ăn nhăn mặt nhăn mày. Trong tất cả mọi hình thái giả hình, có lẽ điều tinh vi nhất và phổ biến nhất là lo lắng.
2. Quí vị có bao giờ nếm trải một nan đề nào đó nung nấu tâm can của quí vị chưa!?! Có thể quí vị nói: "Đức Chúa Trời ơi, Ngài cần phải quan tâm đến vấn đề nầy. Con tin cậy Ngài. Con không còn lo lắng về vấn đề đó nữa”. Tuy nhiên, sau nầy khi quí vị yếu đuối, ma quỉ đang thì thào những nỗi nghi ngờ vào hai lỗ tai của quí vị. Hắn nói: "Phải đấy, nhưng nếu...". Giữa đêm hôm, khi quí vị nhìn lên chiếc quạt trần, hắn sẽ làm cho lý trí của quí vị đầy dẫy với những tai vạ khả thi đẩy lui giấc ngủ và khiến cho quí vị phải căng thẳng. Đấy là cái bẫy, tội lỗi và sự giả hình của sự lo lắng.
3. Chữ Hy lạp được dịch là "lo lắng” ra từ một từ ngữ kép có ý nghĩa là "lý trí phân hai". Ví cớ đó một người có lòng lo lắng là người có lý trí bị phân làm hai. Chữ “lo lắng” theo tiếng Anh ra từ một chữ cổ của tiếng Đức, có nghĩa là "bị kìm hãm hay bị nghẹt ngòi". "Lo lắng" hìm hãm hay làm nghẹt ngòi đức tin và sự chúng ta kết quả cho Đức Chúa Trời.
4. Một trong những minh hoạ hay nhất về lo lắng ra từ mấy người bạn của Chúa Jêsus.
A. Trong Luca 10.38-42, chúng ta thấy Chúa Giêxu đang mời mọc mấy người bạn của Ngài trong thành Bêthany. Chúa Jêsus, cùng với các môn đồ của Ngài rất mệt mỏi và kiệt sức khi phục vụ dân chúng và đón đỡ với các nan đề của người dòng Pharisi.
B. Mathê mời mọi người đến nhà nàng dự một bữa ăn. Trong khi nàng quá bận rộn lo sửa soạn bữa ăn ngon lành nhất, em gái của nàng, là Mary "đến ngồi bên chân Chúa Giêxu và nghe lời của Ngài”. Nàng say sưa trong sự hiện diện của Ngài. Chúa Jêsus vốn hiện diện ở đó, và không một điều gì, thậm chí không một thứ đồ ăn nào có thể tách nàng ra khỏi Ngài cho được.
C. Đồng thời, Mathê, luôn bận bịu với nhiều công việc ở trong bếp và “bối rối về nhiều việc”. Nàng lo kiểm tra mấy chiếc bình, lo nhào bột, dọn bàn ăn v.v…Chẳng có một bàn tay nào phụ giúp hết. Nàng đem lòng LO rằng Chúa Giêxu sẽ không đẹp lòng với sự tiếp đãi của nàng và nàng đã đổ thừa cho em gái mình.
D. Nàng nói: "Lạy Chúa, em tôi để một mình tôi hầu việc, Chúa há không nghĩ đến sao? Xin biểu nó giúp tôi”. Thiệt là buồn cười làm sao! Chắc là Chúa Giêxu nghĩ vậy!
E. Ngài phán: "Hỡi Mathê, ngươi CHỊU KHÓ và BỐI RỐI về nhiều việc". Chữ "chịu khó" ở đây chính là cùng một chữ ở Mathiơ 6 có nghĩa là "lý trí phân hai". Sự căng thẳng của nàng lên rất cao. Gương mặt nàng đỏ ửng lên. Nàng làm việc rất vất vả. Nàng không thể chịu nổi nữa.
F. Đây là giải pháp của Chúa Jêsus: "nhưng có một việc cần mà thôi. Mari đã lựa phần tốt, là phần không có ai cất lấy được". Có người nói Chúa Jêsus đã nhắc tới chỉ một cái đĩa thôi. Ngài phán: "Chỉ cần đặt một cái bánh sandwich vào thôi, hỡi Mathê, hãy đến mà dự phần với chúng tôi".
5. Nếu quí vị giống như tôi, quí vị sẽ giống với Mathê hơn và chẳng thích giống như Mary đâu. Quí vị nói quí vị tin Đức Chúa Trời sẽ lo toan cho mọi nhu cần của quí vị, nhưng ở trong tấm lòng của mình quí vị chưa thực sự tin cậy Ngài. Hôm nay chúng ta sẽ xét qua bốn lý do tại sao lo lắng là vô ích và rồi hãy tiếp thu một số phương thức thắng hơn sự sợ hãi.
I. LO LẮNG PHỦ NHẬN MỌI GIÁ TRỊ CỦA CHÚNG TA (các câu 25-26).
A. Chúa Jêsus bảo chúng ta đừng lo lắng (câu 25a).
1. Hãy chú ý từ ngữ "Vậy nên". Cần phải lui lại câu 24, ở đây Chúa Giêxu dạy rằng Đức Chúa Trời là “chủ” duy nhất của chúng ta. Chúng ta phải diễn giải như thế nầy: "Vì Đức Chúa Trời là Chủ của các ngươi, đừng lo lắng!"
2. Trong bản Tân ước tiếng Hy lạp, mệnh đề nầy mang ý nghĩa kết thúc công việc mà quí vị đang lo làm. Vì cớ chúng ta có lòng lo lắng rồi, Đức Chúa Trời phán: “Thôi, đừng lo nữa”.
3. Xin đừng quên, đây là một mạng lịnh. Đây không những là một ý kiến tốt. Đây không những là một lời đề nghị cao quý. Đây không những là một lời bàn rất hợp lý. Mà đây còn là một mạng lịnh ra từ Đấng Sáng Tạo của vũ trụ nữa. Ba lần trong mười câu Ngài phán: "Đừng lo lắng" (câu 25, 31, 34). Hãy nhớ, Ngài đang phán: "Đừng phân tâm trong tâm trí của ngươi". Giacơ 1.8 chép rằng: “một người phân tâm, phàm làm việc gì đều không định”.
4. Nếu một viên cảnh sát ra lịnh cho quí vị phải cập xe vô lề, quí vị phải cập xe vô lề ngay. Nếu vị giáo sư ra lịnh cho quí vị phải làm bài kiểm tra, quí vị phải làm bài kiểm tra. Nếu toà án ra lịnh cho quí vị phải nghe theo bồi thẩm đoàn, quí vị phải nghe theo. Thế thì chúng ta phải vâng theo mạng lịnh của Đấng đã dựng nên chúng ta và đã chịu chết vì chúng ta nhiều là dường nào?
B. Chúa Jêsus ra lịnh cho chúng ta bởi nhu cần của chúng ta, chúng ta không được đi sai đường (câu 25b).
1. Chúa Jêsus phán rằng quí vị không nên lo lắng về “sự sống của quí vị”. Chúng ta không nên lo lắng về bất cứ điều chi trong đời sống của chúng ta, thậm chí các nhu cần cơ bản của chúng ta.
2. Chúng ta không nên lo lắng về những gì chúng ta “ăn” hay “uống” hoặc về những gì chúng ta sẽ “mặc”. Đây là những nhu cần cơ bản mà hầu hết Cơ đốc nhân đều lo nghĩ tới. Trong thời của Chúa Jêsus, cấp độ nghèo khó rất là cao. Nhiều người trước tiên nghe những lời nói nầy đều mắc nợ ít nhiều hoặc không có gì hết.
3. Chúa Jêsus hỏi: "Sự sống há chẳng quí trọng hơn đồ ăn sao, thân thể há chẳng quí trọng hơn quần áo sao?” Nói cách khác: "Sự sống há chẳng quí trọng hơn việc chăm sóc cho thân thể và phu phỉ các nhu cần của nó sao?”
C. Chúa Jêsus ra lịnh cho chúng ta phải nhìn biết chúng ta có giá trị nhất trong mọi loài thọ tạo của Đức Chúa Trời (câu 26).
1. Có lẽ, khi họ ngồi trên ngọn đồi đó, họ đã nghe thấy tiếng hót của các loài chim và nhìn thấy loài chim chiền chiện đập cánh ở trên đầu. Có thể Chúa Jêsus đã chỉ ra cho họ khi Ngài phán: "Hãy xem loài chim trời".
2. Chúa Jêsus đã mô tả thể nào loài chim: “chẳng có gieo, gặt cũng chẳng có thâu trử vào kho tàng”. Chắc chắn một số người đã chế nhạo ở tư tưởng loài chim đang gieo và gặt các vụ mùa. Dĩ nhiên là không rồi! Loài chim ăn thức ăn nào mà chúng tìm thấy.
3. Chúa Jêsus nhắc cho họ nhớ rằng đồ ăn mà loài chim ăn không phải tình cờ mà có ở trước mặt chúng đâu. Không, “Cha các ngươi trên trời nuôi nó” .
4. Hãy đọc Gióp 38.39 – 39.2
5. Kế đó Chúa Jêsus hỏi: "Các ngươi há chẳng phải là quí trọng hơn loài chim sao?" Dĩ nhiên là quí vị quí trọng hơn rồi. Nếu Đức Chúa Cha chịu khó chăm sóc cho loài vật nhỏ nhất và vô nghĩa nhất trong các loài thọ tạo thì chắc chắn Ngài sẽ chăm sóc cho chúng ta là những kẻ được dựng nên theo ảnh tượng của chính Ngài!
Thánh Augustine đã nói: "Con người đi đó đi đây lấy làm lạ trước chiều cao của núi non, trước những lượn sóng to lớn của biển cả, trước chiều dài của những dòng sông, trước tầm rộng lớn của đại dương, trước chu kỳ chuyển động của các vì sao".
6. Loài chim không được dựng nên theo chính ảnh tượng của Đức Chúa Trời. Không một con chim nào từng được sanh lại. Chúa Jêsus không chết thay cho các loài chim. Không một con chim nào có một quê hương được sửa soạn cho nó trên thiên đàng cả. Nếu Đức Chúa Cha chăm sóc cho loài chim, Ngài sẽ chăm sóc cho quí vị nhiều hơn là ngần nào! Chúa Jêsus đã hỏi: "Các ngươi há chẳng phải là quí trọng hơn loài chim sao?"
Elizabeth Cheney đã viết ra phân đoạn nầy: “Nghe lõm trong vườn”:
Robin nói với chim sẻ: “Ta thực sự muốn biết tại sao con người hay lo lắng nầy cứ hối hả và vất vả như vậy"
Chim sẻ nói với Robin: “Nầy bạn ơi, tôi nghĩ là tại vì họ không có Cha trên trời để chăm sóc giống như bạn và tôi"
7. Quí vị cực kỳ quí trọng đối với Đức Chúa Trời. Vì lẽ đó, đừng lo lắng. Hãy tin cậy và Ngài sẽ chăm sóc cho quí vị.
II. LO LẮNG KHÔNG THAY ĐỔI ĐƯỢC ĐIỀU GÌ (câu 27).
A. Chúa Jêsus hỏi: "Vả lại, có ai trong vòng các ngươi lo lắng mà làm cho đời mình được dài thêm một khắc không?" Chúng ta không thể thêm một cm nào vào chiều cao của mình hoặc một giờ vào đời sống của chúng ta bởi lo lắng. Lo lắng chẳng được tích sự gì hết.
B. Một số bản dịch giải thích điều nầy đề cập tới khoảng thời gian sống. Nền văn hoá của chúng ta bị chìm đắm với việc làm gia tăng khoảng thời gian sống. Mọi thứ quanh chúng ta là chế độ ăn kiêng, thực tập các chương trình, các thứ sinh tố, khoáng chất cùng vô số những thứ khác phải thực thi hay làm theo với hy vọng kéo dài cuộc sống ra.
Khi vào đến thiên đàng, có người nói: "Nếu tôi biết thiên đàng là nơi kỳ diệu như thế nầy, tôi sẽ chẳng hề ăn kiêng đâu". Thiên sứ đáp: "Ông sẽ có mặt ở đây sớm hơn nếu ông không ăn các thứ trộn với cháo!"
C. Chúng ta biết Đức Chúa Trời đã đặt một giới hạn quanh đời sống chúng ta và một mình Ngài đếm số các ngày của chúng ta. Lo lắng về việc chúng ta sống bao lâu là vô ích vì lo như thế cũng chẳng thay đổi được sự sống đó!
D. Tấn sĩ Charles Mayo của Bịnh viện Mayo nổi tiếng từng viết: "Lo lắng tác động vòng tuần hoàn, tim mạch, các tuyến và toàn bộ hệ thần kinh. Tôi chưa hề gặp ai hoặc biết người nào chết vì làm việc quá tải hết, nhưng tôi có biết một số người đã chết vì lo lắng" (MacArthur).
E. Khi tự hành hạ mình, việc ấy sẽ giết quí vị chết với lo lắng. Lo lắng chẳng làm thay đổi được việc gì.
III. LO LẮNG LÀM CHO ĐỨC TIN CHÚNG TA BỊ SUY GIẢM ĐI (các câu 28-32).
A. Chúa Jêsus chỉ ra trường hợp của hoa huệ (các câu 28-29).
1. Ngay trước đó, khi Ngài chỉ ra con chim sẻ của người Palestine đang bay trên đầu, giờ đây Chúa Jêsus chỉ đám cỏ và hoa huệ mọc dại tự nhiên trên sườn núi. Có thể Ngài đã ngắt lấy một bông hoa đó.
2. Ngài hỏi: "Còn về quần áo, các ngươi lại lo lắng mà làm chi?" Hãy nhớ rằng con người thời ấy có rất ít quần áo. Một hay hai bộ đồ là chỉ tiêu. Quần áo tiêu biểu cho một sự đầu tư chủ yếu và đó là nổi lo thường trực đối với thường dân.
3. Có lẽ khi đang cầm lấy một hoa huệ xinh đẹp, Chúa Jêsus đã phán: “Hãy ngắm xem những hoa huệ ngoài đồng mọc lên thể nào". Loài hoa dại không bao giờ than phiền hay ví sánh chúng với loài hoa khác. Chúng lớn lên ở nơi chúng được gieo trồng và nở ra. Chúng làm công việc của chúng dù chúng có được ưa thích hay là không.
4. Chúa Jêsus phán: "Chúng chẳng làm khó nhọc, cũng không kéo chỉ". Chúng không tự mình làm đẹp đâu, Đức Chúa Trời làm cho chúng xinh đẹp. Thực ra, Đức Chúa Trời làm cho chúng xinh đẹp đến nỗi "ngay cả vua Solomon" là một trong những vì vua lỗi lạc nhất và chắc chắn giàu có nhất trong lịch sử Israel "cũng không được mặc áo tốt như một hoa nào trong giống đó".
5. Hãy suy nghĩ tới phương thức chúng ta ăn mặc cho mình ngày hôm nay. Phần nhiều người trong chúng ta là hạng nô lệ cho thời trang đấy. Chúng ta muốn ăn mặc hợp thời trang vì hợp thời trang khiến cho chúng ta cảm thấy tốt đẹp về mình. Đó là sự kiêu ngạo. Nếu Chúa Jêsus nói với người nào chỉ có một bộ quần áo thôi đừng lo lắng về quần áo, Ngài sẽ nói gì với chúng ta?
B. Chúa Jêsus đưa ra phần ứng dụng cho rằng Đức Chúa Trời sẽ làm thoả mãn mọi nhu cần của chúng ta (câu 30a).
1. Loài hoa chỉ nở ra trong một mùa thôi. Chắc chắn chúng sẽ chết và nét đẹp của chúng sẽ phôi phai đi. Chúng chẳng có ích cho cái gì trừ ra cho lò lửa. Phụ nữ sẽ đẩy thứ cỏ và hoa khô, không có sự sống kia để chụm lửa trong mấy cái lò bằng đất nung của họ.
2. Chúa Jêsus lý luận: "loài cỏ ngoài đồng, là giống nay còn sống, mai bỏ vào lò, mà Đức Chúa Trời còn cho nó mặc đẹp thể ấy thay, huống chi là các ngươi?" Cho phép tôi dùng mệnh đề nầy: "Nếu Đức Chúa Trời mặc cho loài hoa ở ngoài đồng, là thứ chỉ sống tạm chỉ trong một mùa thôi, Ngài sẽ mặc cho quí vị còn nhiều hơn và làm thoả mãn các nhu cần của quí vị khi nhìn thấy quí vị được dựng nên cho cõi đời đời và vì quí vị là kẻ kế tự nước thiên đàng!"
C. Chúa Jêsus sánh lo lắng với việc thiếu đức tin (câu 30b).
1. Ngài đang mô tả hạng người lo lắng là "Hỡi kẻ ít đức tin". Theo Chúa Jêsus, người nào lo lắng nhiều thì là người có đức tin ít. Người nào có đức tin lớn thì là người lo lắng ít. Hãy nhớ, lo lắng là giả hình. Mặc dù quí vị nói quí vị có đức tin, lo lắng ở trong lòng để lộ ra sự thiếu đức tin của quí vị.
2. Nếu quí vị tin Đức Chúa Trời có quyền giải cứu, cứu chuộc, tái tạo, cất bỏ xiềng xích của tội lỗi và giữ gìn quí vị an toàn, hãy tin Ngài sẽ làm phu phỉ mọi nhu cần của quí vị ngay bây giờ.
3. Khi chúng ta lo lắng, chúng ta đang nói: "Tôi chưa hoàn toàn tin cậy Đức Chúa Trời với nan đề nầy". Oswald Chambers đã viết: "Mọi nổi lo xuất đầu lộ diện do tính toán mà không có Đức Chúa Trời".
4. Một số binh lính của Solomon đều có loại khiên bằng vàng. Phải tốn đến 87.000 người làm việc trong 5 năm rưỡi để xây dựng đền thờ cho ông. Phải tốn đến 5 tỉ đô la. Thế mà mọi sự giàu có của Solomon không thể sánh với những bông hoa mọc ở dưới chân Chúa Jêsus. Cũng một thể ấy, mọi nan đề và nhu cần trong đời sống của quí vị chẳng là gì hết mà chỉ là một giọt nước sánh với cả đại dương. Đức Chúa Trời vốn có quyền và Ngài muốn làm thoả mãn từng nhu cần của quí vị.
5. Trong II Các Vua 6, chúng ta đọc thấy tiên tri Êlisê cùng với tôi tớ của người. Kẻ thù đang bao vây họ, chắc chắn họ sẽ bị giết. Tên đầy tớ lấy làm lo và sợ hãi. Êlisê đã cầu nguyện xin Đức Chúa Trời mở mắt tên đầy tớ và giúp cho hắn nhìn thấy đội quân thuộc linh của Đức Giêhôva đang đóng ở xung quanh.
D. Một lần nữa, Chúa Giêxu truyền cho chúng ta đừng lo lắng (câu 31).
1. Bất cứ lúc nào quí vị nhìn thấy một mệnh đề được lặp lại trong Kinh thánh, điều nầy tuyên bố tầm quan trọng của vấn đề đó. Chúa Jêsus đang nhấn mạnh mạng lịnh của Ngài.
Một lớp sương mù dày đặc rộng đủ để che phủ 7 lô đất trong thành phố dày 100 feet gom lại không đầy một ly nước – chia thành 60.000 triệu giọt nhỏ. Chỉ cần vài gallon nước, theo hình thái hư ảo đó có thể làm ngưng trệ hoạt động của một thành phố lớn. Cũng một thể ấy, những gì chúng ta lo lắng đến gần như không tệ hại bằng tầm cở nó tạo ra trong lý trí chúng ta và thiệt hại nó tác động trong đời sống của chúng ta. Có người đã nói như vầy: "Lo lắng và một dòng sông sợ hãi mong manh chảy từ từ trong trí, nếu được kích động, nó sẽ cắt một eo biển rộng đến độ mọi dòng tư tưởng khác sẽ bị cạn vơi hết".
2. Hầu hết những gì quí vị lo lắng đều sẽ không bao giờ xảy ra. Chúng ta đừng lo về chúng ta phải “ăn”, “uống”, hay “mặc” gì hoặc bất cứ một việc gì khác. Lo lắng biểu lộ cho sự thiếu đức tin.
E. Chúa Jêsus nhắc cho chúng ta nhớ rằng Đức Chúa Trời vốn biết rõ mọi nhu cần của chúng ta rồi (câu 32).
1. Chúa Jêsus dạy cho chúng ta biết rằng chúng ta không nên sống như “người Ngoại”. Đây là lần tham khảo đến hạng người vô tín ở ngoài sự thịnh vượng của dân Israel.
2. Chúng ta không nên sống giống như hạng người vô tín ở ngoài nước Đức Chúa Trời. Họ “tìm cách” chạy theo những gì họ "ăn", "uống", và "mặc". Tiêu điểm của hạng người bị hư mất luôn luôn nhắm vào việc ở đây và bây giờ, những gì cần phải tận hưởng trong đời nầy. Họ chẳng có một hy vọng gì trong cuộc sống hầu đến, vì vậy họ chỉ hy vọng vào đời nầy mà thôi.
3. Chúng ta không nên lo lắng giống như hạng người bị hư mất. Chúng ta cần phải biết rõ là "Cha các ngươi ở trên trời vốn biết các ngươi cần dùng những điều đó rồi".
4. Tôi thích Philíp 4.19. Câu nầy chép: "Đức Chúa Trời tôi sẽ làm cho đầy đủ mọi sự cần dùng của anh em y theo sự giàu có của Ngài ở nơi vinh hiển trong Đức Chúa Jêsus Christ”.
5. Khi tôi còn nhỏ, bố tôi lo chu cấp mọi nhu cần của tôi vì tôi là con của ông. Dù tôi đẹp trai hay xấu trai thì không phải là vấn đề. Tôi đã là con của ông mà. Cũng một thể ấy, Cha của tôi ở trên trời thường xuyên chu cấp cho mọi nhu cần của tôi, không dựa vào tôi có trung tín với Ngài hay không, mà chỉ dựa vào sự Ngài thành tín đối với tôi mà thôi.
IV. LO LẮNG XA RỜI MỤC ĐÍCH CỦA CHÚNG TA (các câu 33-34).
A. Mục đích của chúng ta là "trước hết tìm kiếm Nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài" (câu 33a).
1. Lý trí của chúng ta cần phải đặt vào Đức Chúa Trời và Nước của Ngài. Ưu tiên một của chúng ta không phải là cần thoả mãn các nhu cầu đời nầy, mà trở thành hạng người mà Đức Chúa Trời muốn chúng ta phải trở thành.
2. Côlôse 3.1-3 chép: "Vậy nếu anh em được sống lại với Đấng Christ, hãy tìm các sự ở trên trời, là nơi Đấng Christ ngồi bên hữu Đức Chúa Trời. Hãy ham mến các sự ở trên trời, đừng ham mến các sự ở dưới đất; vì anh em đã chết, sự sống mình đã giấu với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời".
3. Tìm kiếm Nước của Ngài có nghĩa là tìm cách đưa người ta đến với Đấng Christ. Như vậy có nghĩa là dấn thân vào sự chứng đạo và công cuộc truyền giáo.
4. Hãy chú ý chữ “trước tiên”. Chúng ta có nhiều ưu tiên khác nhau: gia đình, công ăn việc làm, v.v…Chúng ta phải nhớ rằng điều “trước tiên” của chúng ta luôn luôn là Đức Chúa Trời.
5. Chúng ta cũng cần phải nhìn thấy "sự công bình của Ngài" hay sự nên thánh. Chúng ta cần phải sống đời sống thánh khiết. I Phierơ 1.16 chép: "Hãy nên thánh, vì ta là thánh". II Phierơ 3.11 chép: "Vì mọi vật đó phải tiêu tán thì anh em đáng nên thánh và tôn kính trong mọi sự ăn ở của mình là dường nào".
B. Chúng ta cần phai biết rằng mọi nhu cần của chúng ta sẽ được "thêm lên" cho chúng ta (câu 33b).
C. Chúng ta được truyền cho đừng lo lắng về "ngày mai".
1. Có người đã phạm phải sự lo lắng đến độ nếu họ không tìm được điều gì để lo cho hôm nay, họ lo về những điều mà ngày mai sẽ đem tới.
2. Trong quyển “Tốt hơn vàng”, Gordon MacDonald đã viết: "Không một người nào bị lún dưới gánh nặng của ban ngày. Khi gánh nặng của ngày mai thêm vào gánh nặng của hôm nay, thì sức nặng càng nhiều thêm một người có thể mang lấy".
3. Chúa Jêsus, lần thứ ba Ngài phán: "Đừng lo lắng". Lần nầy chúng ta không nên lo lắng về “ngày mai”.
4. Ca thương 3.22-23 chép: "Ấy là nhờ sự nhơn từ Đức Giê-hô-va mà chúng ta chưa tuyệt. Vì sự thương xót của Ngài chẳng dứt. Mổi buổi sáng thì lại mới luôn, sự thành tín Ngài là lớn lắm".
5. Mỗi "ngày là rắc rối của chính ngày ấy". Có đủ những thứ rắc rối, thử thách và cám dỗ mỗi ngày mà không có sự lo lắng về những thứ mà ngày mai mang tới.
V. BỐN NGUYÊN TẮC ĐỂ THẮNG HƠN LO LẮNG.
A. Trước tiên, hãy thành thực dâng mọi nan đề của quí vị cho Đức Chúa Trời. Quí vị đã cầu nguyện về nan đề đó nhưng quí vị đã trao phó nó vào trong tay của Ngài và tránh xa nó ra.
B. Thứ hai, khi Satan khởi sự làm cho quí vị phải lo lắng, hãy nhắc cho hắn nhớ tới Đấng biết rõ mọi điều quí vị lo lắng. Hãy nói cho hắn biết quí vị đã trình cho Chúa biết về nan đề của quí vị rồi (Giacơ 4.7).
C. Thứ ba, hãy sống trọn vẹn cho một ngày. Đừng lấy làm bối rối về ngày mai.
D. Thứ tư, hãy đồng đi với Chúa. Quí vị càng gần gũi với Đức Chúa Trời, thật là khó lấy làm lo lắng lắm.

Thứ Năm, 22 tháng 3, 2012

Bài 24: Mathiơ 6:19-24: "Về Chủ Nghĩa Vật Chất"


MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Về chủ nghĩa vật chất
Mathiơ 6.19-24
1. Nếu quí vị cùng nghiên cứu với chúng tôi, quí vị nhận ra ngay các nhà lãnh đạo tôn giáo, họ đã bị nhiễm với một loại tôn giáo trình diễn, phần nhiều trong số họ đều đã nghe Chúa Jêsus phán ra những lời nầy. Họ “thổi kèn” trước khi bố thí cho người nghèo (câu 2). Họ ưa “đứng cầu nguyện nơi nhà hội và góc đường” (câu 5). Khi phải kiêng ăn, họ khoác “bộ mặt buồn rầu”“nhăn mặt” để cho ai nấy đều biết họ đang kiêng ăn (câu 16). Mục đích của Chúa Jêsus là ĐỪNG SỐNG GIỐNG NHƯ NGƯỜI DÒNG PHARISI. Thực ra trong 5.20, Ngài phán: "Nếu sự công bình của các ngươi chẳng trổi hơn sự công bình của các thầy thông giáo và người dòng Pharisi, thì các ngươi chắc không vào nước thiên đàng”.
2. Không những các cấp lãnh đạo tôn giáo lo chăm chút ưa trình diễn bộ mặt tôn giáo của họ; mà họ còn thích phô trương sự giàu có của họ nữa. Thực vậy, người dòng Pharisi vốn xu hướng vào chủ nghĩa vật chất, tham lam, keo cú, và lôi kéo. Luca 16.14 đặc biệt mô tả người Pharisi là hạng người “ham mến tiền tài”.
3. Họ thường sử dụng sự giàu có của họ để làm bằng chứng về ơn phước của Đức Chúa Trời. Dưới sóng mũi kỉnh kiền của họ, là ánh mắt của họ chiếu vào người nghèo. Họ trưng dẫn sai các phân đoạn Cựu ước để dạy rằng Đức Chúa Trời ban sự giàu có cho những người xứng đáng được giàu có và Ngài khiến cho những người khác phải lâm cảnh nghèo khó. Xưng nhận sự Đức Chúa Trời tán thưởng trên cơ sở giàu có và uy tín là bóp méo Lời Đức Chúa Trời và đang sử dụng danh Ngài trong sự hư không.
4. Nền văn hoá của chúng ta có một nét quyến rũ với sự giàu có. Căn bịnh số 1 trong xã hội Mỹ không phải là AIDS, mà căn bịnh ấy chính là chủ nghĩa vật chất. Chúng ta muốn, chúng ta vay mượn, và chúng ta mua sắm. Chúng ta phấn đấu để có nhiều hơn và tốt đẹp hơn chúng ta từng có trước đây. Dường như những người Mỹ ngày nay tìm gặp hình tượng của họ không ở trong đền thờ mà ở trên tờ hoá đơn đô la của họ.
Vào ngày đầu tiên sau kỳ lễ Giáng Sinh, một vị giáo viên cấp mẫu giáo đã yêu cầu học trò của mình kể cho cô giáo nghe cách thức gia đình chúng tổ chức Lễ Giáng Sinh. Một bé trai đáp: "Chúng em là người theo đạo Công giáo, vì vậy chúng em đi chơi lúc nửa đêm và trở về nhà rồi lên giường ngủ. Sáng hôm sau, chúng em có một bữa ăn sáng thật to và mở các gói quà ra". Một bé gái nói: "Chúng em là người Báp tít, vì vậy chúng em đến với buổi thờ phượng đêm Giáng sinh có đốt nến rồi trở về nhà lên giường ngủ. Sáng hôm sau, chúng em có bữa ăn sáng thật to rồi mở các gói quà ra". Một bé trai khác nói: "Chúng em không phải là Cơ đốc nhân, vì vậy chúng em không đi nhà thờ. Tuy nhiên, chúng em có một bữa ăn sáng thật to rồi mở các gói quà ra. Sau đó, bố của em chất chúng em vào xe và chúng em được chở ra siêu thị. Ở đấy, bố chỉ cho chúng em thấy mọi ngăn kệ trống rỗng và toàn bộ số tiền ông đem theo. Kế đó, chúng em đi một vòng quanh chiếc máy tính tiền rồi cất tiếng hát: 'Đúng là người bạn mà chúng em có trong Chúa Jêsus!'”
5. Trong phân đoạn nầy ở giữa Bài Giảng Trên Núi, Chúa Jêsus phán về chủ nghĩa vật chất, đặc biệt mỗi người phải đưa ra ba sự lựa chọn. Chúng ta chọn: các sự đầu tư, tầm nhìn và lòng trung thành của chúng ta.
I. HÃY XEM XÉT SỰ ĐẦU TƯ CỦA QUÍ VỊ (các câu 19-21).
Hãy dành một phút xem coi quí vị có một số quỹ thặng dư để đầu tư hay không!?! Đối với một số người trong chúng ta, điều nầy phải có một chút tưởng tượng đấy! Chọn lựa đầu tư tiền bạc vào chỗ nào thì gần như là vô hạn. Nếu quí vị đầu tư vào chỉ một công ty, thì quí vị sẽ chọn công ty nào? Cũng phương thức ấy, nếu quí vị chỉ đầu tư đời sống mình vào "của cải dưới đất" hay "của cải ở trên trời", quí vị sẽ chọn thứ nào? Quí vị sẽ thực hiện đầu tư vào chỗ có lãi suất trả cho đến đời đời hoặc đầu tư của quí vị sẽ bị bỏ lại sau lưng khi quí vị qua đời!?!
A. Chúa Jêsus phán chúng ta đừng quan tâm tới các đầu tư ở dưới đất (câu19a).
1. “Của cải dưới đất” là gì? Chúng ta hãy nghiên cứu xem Chúa Jêsus đang nói điều gì!?!
a. Ngài không phán chúng ta không nên có tiền bạc hay của cải. Ngài không hề biện hộ sự nghèo thiếu là một phương tiện để đạt được mặt thuộc linh. Thực ra, một số người tin kính nhất trong Kinh thánh đều là hạng người giàu có cực kỳ: GIÓP, ÁPRAHAM, GIÔ-SÉP, GIÔ-SÉP NGƯỜI ARIMATHÊ...
b. Ngài không phán chúng ta không nên hoạch định cho tương lai. Hết thảy chúng ta đều là quản gia các thứ ơn của Đức Chúa Trời. Chúng ta cần phải sử dụng các ơn ấy cách khôn ngoan.
c. Ngài không phán chúng ta không nên tận hưởng của cải hay những thứ đẹp đẽ chúng ta đang có trong tay. Thực ra, I Timôthê 6.17 nói rằng chính Đức Chúa Trời: "là Đấng mỗi ngày ban mọi vật dư dật cho chúng ta được hưởng”. Phaolô nói ở Philíp 4.1-12: "Tôi biết chịu nghèo hèn, cũng biết được dư dật". Ông đã sống trong nhà đúc cũng như trong nhà lều.
2. “Của cải dưới đất” là gì? Chúa Jêsus đang phán rằng chúng ta không nên lấy sự làm ra tiền và có được của cải vật chất làm mục tiêu chính trong đời sống của chúng ta. Đấy là chủ nghĩa vật chất. Bất cứ đâu, người ta đang khao khát thành công, tiền bạc, và nhiều của cải.
3. Cả hai từ "chất chứa""của cải" đều ra từ gốc Hy lạp chữ thesauros, từ đó chúng ta có từ "thesaurus" theo tiếng Anh, một chữ mô tả nhà kho. Một bản dịch sát nghĩa câu nầy đọc là: "Đừng chất chứa của cải cho các ngươi".
4. Từ ngữ "chất chứa" cũng mang ý niệm tích trữ hay xếp chồng các đồng tiền lên cao. Vì cớ đó, thực chất của câu nầy: ấy là chúng ta đừng dự trữ sự giàu có mà không đem ra sử dụng.
5. Dù chúng ta có xem của cải của mình là một thứ đem chi xài hay tích trữ theo cách ích kỷ – những của cải đó đã trở thành hình tượng rồi. Khi ấy tiền bạc đã trở thành một vị thần. I Timôthê 6.10 chép: "Sự THAM tiền bạc là cội rễ mọi điều ác..."
B. Đầu tư dưới đất dễ bị thua thiệt (câu 19b).
1. Trong thời buổi xa xưa, người giàu rất lo về "sâu mối” (theo bản Kinh thánh tiếng Anh, moths là loài hay cắn phá quần áo). Giàu có thường được để ý tới qua cách ăn mặc. Thực ra, cách ăn mặc của họ tiêu biểu cho một sự làm ăn lớn. Hạng người giàu có thường mặc áo màu tía rất đắt tiền, loại vải nầy dệt bằng chỉ vàng. Loại quần áo đắt tiền nhất thường làm bằng len, tất nhiên đây là thứ mà loài sâu mối (moths) chọn để cắn phá.
2. Trong thời buổi xa xưa, người giàu rất lo về "gỉ" (ten rét). Từ Hy lạp dịch là "gỉ" có nghĩa là "một thức ăn". Theo ý nghĩa nguyên thủy, từ nầy không đề cập nhiều tới “gỉ” như nó đề cập tới loài côn trùng và loài chuột gậm nhấm gạo thóc được những nông gia giàu có chất chứa.
3. Trong thời buổi xa xưa, người giàu rất lo về "trộm cướp". Những giá trị không thể hư mất thường được để trong loại bình bằng đất sét rồi được chôn trong đất khi chẳng có một sự an ninh, nhà băng hay loại hộp ký gửi an toàn. “Trộm cướp” thường “phá vỡ” (sát nghĩa "đào ngạch khoét vách") rồi lấy đi của cải.
4. Nỗi lo to lớn nhất có thể không phải là "moth" (sâu mọt), "gỉ" (ten rét) hay ngay cả "trộm cướp" nữa, nhưng chẳng có một thứ gì quí vị đang cầm giữ trong đời nầy là an toàn cả: TIỀN BẠC, NHÀ CỬA, CỦA CẢI, NĂNG KHIẾU, SỨC KHOẺ, GIA ĐÌNH...
C. Chúa Jêsus phán chúng ta cần phải quan tâm chủ yếu đến của cải ở trên trời (câu 20a).
1. Quí vị có biết Đức Chúa Trời đã dựng nên quí vị cho cõi đời đời không? Bảy mươi hay tám mươi năm quí vị sống ở đây chỉ là một cái chớp mắt trong cõi đời đời. Thời gian ở trên đất của chúng ta chỉ cho phép chúng ta đạt tới chỗ nhìn biết Đức Chúa Trời mà chúng ta sẽ phục sự cho đến đời đời mà thôi.
2. Quí vị đầu tư đời sống mình vào những việc nào, thì giờ và năng lực của quí vị sẽ qua đi thôi, có phải không? TIỀN BẠC, NHÀ CỬA, XE CỘ, CÔNG ĂN VIỆC LÀM, CHƠI GOLF, CÂU CÁ...
3. Chúng ta sẽ đầu tư đến vĩnh viễn ở những lãnh vực nào? ĐỜI SỐNG THUỘC LINH, GIA ĐÌNH – CON CÁI - HỘI THÁNH, BẠN BÈ...
Có người đã viết: “Tiền bạc sẽ mua một cái giường; nhưng không mua được giấc ngủ; mua được sách vỡ, nhưng không mua được bộ óc; mua được thức ăn, song không mua được sự ngon miệng; mua được quần áo lộng lẫy, nhưng không mua được vẻ đẹp; mua được thuốc men nhưng không mua được sức khoẻ; mua được lộng lẫy xa hoa nhưng không mua được văn hoá; mua được nhiều thứ tiêu khiển nhưng không mua được hạnh phúc; mua được tôn giáo nhưng không mua được sự cứu rỗi; mua được một cây thập tự chớ không mua được một Cứu Chúa; mua được giấy thông hành đi khắp nơi nhưng không mua được thiên đàng”.
D. Những đầu tư ở trên trời đều an toàn trọn vẹn (câu 20b).
1. Không những đầu tư trên đất nầy đều là liều lĩnh, chúng chỉ là tạm thời mà thôi. HỎI: Thường thì ba thứ nầy có cái gì nào?: một thẻ VISA bằng vàng, một thuyền đánh cá, và một cú chấp trong môn đánh golf? ĐÁP: Chúng chỉ là tạm thời. Việc duy nhất chúng đặt vào chiếc quan tài với quí vị là quí vị đấy.
2. Ở trên trời chẳng có “sâu mối”, “ten rét” hay "trộm cướp". Thiên đàng là một ngân hàng, trong đó mọi đầu tư của quí vị không bao giờ giảm sút, nhưng lãi ròng càng lúc càng tăng thêm!
E. Đầu tư của chúng ta bày tỏ ra tình yêu chơn thật của chúng ta (câu 21).
1. Những của cải mà người ta ấp ủ và mọi khao khát sâu sắc nhất của họ đều không thế tách rời ra được. Nếu “tấm lòng” của quí vị đem đặt ở trên trời, thì mọi “của cải” của quí vị sẽ đặt ở trên trời. Nếu “tấm lòng” của quí vị đem đặt vào những việc của trần gian, thì “của cải” của quí vị sẽ đặt ở trần gian và nhất thời.
2. Chúa Jêsus không phán rằng nếu chúng ta đặt mọi “của cải” của mình vào đúng chỗ thì “tấm lòng” của chúng ta cũng sẽ được đặt ở đúng chỗ nữa. Đúng hơn mọi “của cải” của chúng ta hiển nhiên đang bày tỏ ra “tấm lòng” của chúng ta.
3. Chúa Jêsus đang dạy hãy đặt “tấm lòng” của quí vị vào đúng chỗ thì mọi “của cải” của quí vị sẽ đi theo “tấm lòng” của quí vị ngay.
G.Campbell Morgan đã viết: “Quí vị cần phải nhớ với tình cảm đang nung nấu bên trong quí vị đến nỗi quí vị không còn là con trẻ ngày hôm nay nữa. Quí vị không thuộc về thế gian nầy, quí vị còn hơn cả bụi đất nữa; quí vị là con cái của ngày mai, quí vị thuộc về cõi đời đời, quí vị là dòng dõi của Đức Chúa Trời...Quí vị thuộc về cõi vô hạn. Nếu quí vị tạo dựng của cải mình ở trên đất – hỡi linh hồn nghèo nàn, buồn khổ, dại dột – quí vị đã tạo dựng của cải, và chất chứa nó ở một chỗ mà quí vị không cầm giữ nó được ở tại đó. Hãy tạo dựng của cải cho mình, nhưng hãy chất chứa nó ở chỗ mà nó sẽ chào đón quí vị trong buổi bình minh của một ngày mới”.
II. HÃY XEM XÉT TẦM NHÌN CỦA QUÍ VỊ (các câu 22-23).
A. Con mắt cung ứng sự thấy cho toàn thân thể (câu 22a).
1. Chúa Jêsus phán rằng con mắt của chúng ta là ngọn "đèn" của thân thể chúng ta. Con mắt của chúng ta là nguồn duy nhất cho sự thấy. Chúng là loại thấu kính, là khung cửa sổ qua đó chúng ta nhìn thấy thế giới quanh chúng ta. Nếu con mắt chúng ta bị lé, chúng ta có một cái nhìn về thế gian méo mó. Nếu con mắt của chúng ta bị mù, chúng ta không thể nhìn thấy thế giới quanh chúng ta.
2. Nếu chúng ta đã được sanh lại, chúng ta có “con mắt thuộc linh” thêm vào với con mắt thuộc thể. Chúng ta nhìn thấy sự vật khác biệt với hạng người hư mất quanh chúng ta. “Con mắt thuộc linh” của chúng ta giúp chúng ta nhìn thấy rõ ràng mọi điều đang xảy ra quanh chúng ta.
3. Những điều mấy câu nầy đề xuất: ấy là chúng ta xem xét “con mắt thuộc linh” của chúng ta để quyết định chúng ta đang nhìn thấy rõ như thế nào.
B. Toàn thân thể nhờ mắt tốt mà được ích (câu 22b).
1. Chúa Jêsus phán rằng thật là tốt nếu mắt của quí vị “sáng sủa” hoặc theo như bản King James nói: "đơn sơ". Có lẽ cách dịch hay hơn sẽ là "rõ ràng" hay "có mục tiêu". Cho phép tôi diễn giải: "Nếu mắt ngươi nhìn thấy rõ ràng, toàn thân ngươi được ích".
2. Khi chúng ta học biết nhìn xem của cải vật chất của đời nầy theo cách thích ứng, chúng ta đang có “con mắt thuộc linh” “sáng sủa”. Khi chúng ta xem tiền bạc và của cải như những phương tiện hầu việc Chúa và giúp đỡ cho người khác, chúng ta đang có tầm nhìn thuộc linh 20/20.
C. Toàn thân thể bị ngăn trở bởi con mắt xấu (câu 23a).
1. Chúa Jêsus tiếp tục nói rằng nếu con mắt quí vị “xấu” hay "gian ác" (bản Kinh thánh King James) thì thân thể của quí vị "sẽ tối tăm". Một lần nữa chúng ta hãy phân tích để có được sự hiểu biết: "Nếu con mắt ngươi không nhìn thấy rõ ràng thân thể ngươi sẽ bị hư mất trong chỗ tối tăm”.
a. Con mắt giống như chiếc cửa sổ cho thân thể. Có bao giờ quí vị cố gắng lái xe với chiếc kính bị vấy bẩn hay bị rạn nứt chưa? Lái xe trong cơn mưa với cặp quạt nước bị hư hoặc với kính đục ngầu vào một buổi sáng mùa đông thì sẽ ra sao nào?!?
b. Nếu quí vị đeo kính, quí vị biết nó sẽ kích thích thể nào khi hai cái tròng đều bị bẩn cả. Sự dơ bẩn ngăn trở tầm nhìn của quí vị.
2. Khi suy tưởng của chúng ta về tiền bạc hay về của cải là sai, thì giống như cố gắng nhìn qua một kính chắn gió đục ngầu hay cặp kính dơ bẩn, tầm nhìn của quí vị bị suy giảm đi. Tình trạng ích kỷ của linh hồn giữ chúng ta không nhìn thấy được giống như Đức Chúa Trời đang nhìn thấy đâu!
D. Tầm nhìn của chúng ta tỏ ra sự sáng ở trong linh hồn chúng ta (câu 23b).
1. Chúa Jêsus phán rằng nếu "sự sáng láng trong ngươi chỉ là tối tăm, thì sự tối tăm nầy sẽ lớn biết là dường bao”. Nếu quí vị nghĩ quí vị đang nhìn thấy rõ, thế nhưng thực sự không phải như vậy, vậy thì cái thấy đó chỉ là mù loà và từ chối không công nhận bị mù.
2. Có người đã bị giảm sút “tầm nhìn thuộc linh” mà không chịu nhìn nhận như thế.
Tôi nhớ lần đầu tiên tôi đeo kính. Tầm nhìn gần của tôi đã bị điều chỉnh. Thình lình thay vì nhìn thấy màu xanh lá cây nơi cây cối, tôi đã nhìn thấy những chiếc lá. Thay vì nhìn thấy màu xanh lá cây trên mặt đất, tôi đã nhìn thấy những chiếc lá cỏ. Mọi sự đến từ sự chú ý đúng đối tượng. Trước khi tôi đeo kính, tôi không biết tầm nhìn của tôi tồi tệ như thế nào. Cũng vậy, nhiều người nghĩ chẳng có gì sai trong cách họ nhìn xem của cải vật chất, nan đề là: họ đang có con mắt “xấu” và không chịu nhìn nhận con mắt ấy xấu.
E. Thử nghiệm tầm nhìn thuộc linh:
1. Quí vị có thường mua những đồ vậy quí vị có cần trước khi quí vị đủ sức mua sắm chúng hay không?
2. Quí vị có cảm thấy mình được yên ủi và lấy làm tự hào trong việc có khả năng làm ra và tiết kiệm tiền bạc không?
3. Quí vị có tự đánh giá mình và người khác, mình đang sinh sống ở đâu, mình lái xe gì, và mình đang sở hữu cái gì không?
4. Quí vị có rời rộng, phóng khoáng không? Quí vị có bố thí cho những ai đang trong cảnh có cần không? Quí vị có nhớ không?
5. Quí vị có dâng hiến cho công việc của Đức Chúa Trời đều đặn, có hệ thống không?
F. Chúng ta chỉnh sửa tầm nhìn thuộc linh nghèo nàn bằng cách nào?
1. Hãy tra mắt và lý trí của quí vị vào Nước Đức Chúa Trời. Côlôse 3.1-3 chép: “Vậy nếu anh em được sống lại với Đấng Christ, hãy tìm các sự ở trên trời, là nơi Đấng Christ ngồi bên hữu Đức Chúa Trời. Hãy ham mến các sự ở trên trời, đừng ham mến các sự ở dưới đất; vì anh em đã chết, sự sống mình đã giấu với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời”.
2. Hãy cẩn thận canh giữ lý trí của quí vị. Philíp 4.8 chép: "Rốt lại, hỡi anh em, phàm điều cho chơn thật, điều chi đáng tôn, điều chi công bình, điều chi thánh sạch, điều chi đáng yêu chuộng, điều chi có tiếng tốt, điều chi có nhân đức đáng khen, thì anh em phải nghĩ đến".
III. HÃY CHỌN LÒNG TRUNG THÀNH CỦA QUÍ VỊ (câu 24).
A. Trong thế gian nầy, lòng trung thành bị chia ra là một việc không chấp nhận được (câu 24a).
1. Chúa Jêsus phán: "Chẳng ai được làm tôi hai chủ". Giống như chúng ta không có của cải trên đất và trên trời, cũng vậy, chúng ta không thể có cả sự sáng và sự tối tăm trong thân thể của chúng ta, chúng ta không thể phân chia lòng trung thành được.
2. Quí vị không thể làm cổ động viên cho hai đội bóng được. Quí vị không thể ưa thích cả hai đội Dallas Cowboys và Washington Redskins cho được.
3. Chúa Jêsus đang phán dạy về tầm cở của hạng nô lệ.
a. Từ Hy lạp nói đến "chủ"kurios, chữ nầy thường được dịch là "chúa” (lord). Chữ nầy đề cập tới chủ nhân của nô lệ.
b. Nhiều người ngày nay có thể làm hai nghề và chu toàn cho cả các chủ thuê. Tuy nhiên, chẳng ai được làm tôi hai “chủ”. Qua cách định nghĩa, một chủ nô có toàn quyền điều khiển đời sống của nô lệ.
4. Giống như chúng ta không thể đi theo hai hướng cùng một lúc, chúng ta không thể "phục vụ hai chủ". Nếu chúng ta cố gắng chúng ta sẽ "ghét người nầy mà yêu người kia" hoặc giả sẽ "trọng người nầy mà khinh người kia”.
B. Trong nước của Đức Chúa Trời, lòng trung thành bị phân chia ra cũng là một sự không thể chấp nhận được (câu 24b).
1. Là nô lệ của Đức Chúa Jêsus Christ, chúng ta không thể dâng lòng trung thành hay bổn phận của mình cho bất cứ điều chi hay bất cứ ai khác, kể cả bản thân mình.
2. Chúa Jêsus phán, quí vị "không có thể làm tôi Đức Chúa Trời lại làm tôi Ma-môn” hay "sự giàu có" nữa.
Có một câu chuyện rất thú vị kể về một người Ấn độ đến viếng thăm người bạn sống tại thành phố New York. Khi họ cùng đi xuống phố ngày nọ, ở giữa mọi sự nô nức và ồn ào của thành phố, người Ấn độ kia nói: "Tôi nghe thấy tiếng con dế gáy”. Bạn ông ta hỏi: "Làm sao ông nghe được tiếng dế gáy trong mọi sự ồn ào dộn dực nầy? Ông có điên không đấy?" Ngay giây phút đó, người Ấn độ lắc nhẹ chiếc chậu hoa rồi nhìn xuống bên dưới bụi cây nhỏ rồi trao cho bạn mình một con dế. Ông ta nói: "Thiệt là ngộ à, ông có cái lỗ tai siêu nhân đấy”. Người Ấn độ kia đáp ngay: "Ồ không, tôi không nghe khá hơn ông đâu. Chỉ nhờ vào việc mà ông hay nghe thấy đó thôi". Người New York nầy hỏi: "Ý ông muốn nói gì?" Người Ấn độ đáp: "Hãy xem đây!" Ông ta thò tay vào túi và rút ra mấy đồng tiền lẽ. Khi ông ta bỏ đồng tiền rơi xuống đất, có đến hai tá người xây lại nhìn. Người Ấn độ nói: "Tất cả chúng ta đều thấy và nghe điều chi quan trọng cho chúng ta".
Tôi thích thể thơ trữ tình của bài ca xưa nầy:
Tôi ưa Chúa Jêsus hơn vàng và bạc,
Tôi muốn thuộc về Ngài hơn là giàu nứt vách,
Tôi muốn có Chúa Jêsus hơn là nhà cửa và đất đai,
Tôi muốn bàn tay có dấu đinh của Ngài dẫn dắt.
Tôi muốn có Chúa Jêsus hơn là
tiếng vỗ tay tán thưởng của con người,
Tôi muốn trung tín với lý tưởng đáng yêu của Ngài;
Tôi muốn có Chúa Jêsus hơn là
danh tiếng khắp thế giới,
Tôi muốn sống chơn thật với danh thánh của Ngài.
Hơn là làm Vua với quyền hành rộng lớn
Hoặc bị cầm giữ trong thế lực khủng khiếp của tội lỗi;
Tôi muốn có Chúa Jêsus hơn bất cứ thứ gì khác
mà thế gian nầy cung ứng cho hôm nay.
PHẦN KẾT LUẬN: Nếu mọi sự quí vị đang có là Chúa Jêsus, quí vị có thoả lòng không?

Thứ Ba, 6 tháng 3, 2012

Bài 23: Mathiơ 6:9-18: "Về Kiêng Ăn Và Cầu Nguyện"


MATHIƠ - VUA CÁC VUA
Về kiêng ăn và cầu nguyện?
Mathiơ 6.9-18
1. Hãy cùng tôi xem Mác 9.14-29. Tại bối cảnh nầy, về sau trong chức vụ của Chúa Jêsus, Ngài và ba môn đồ thân cận là Phierơ, Giacơ và Giăng xuống từ Núi Hẹtmôn, ở đây Chúa đã bày tỏ ra sự vinh hiển của Ngài hay đã hoá hình trước mặt họ.
A. Khi họ từ trên núi xuống, họ đã nhìn thấy các môn đồ khác đang cãi cọ gay gắt với một đám đông về cậu con trai “bị quỉ câm ám” (câu 17).
B. Cha của cậu trai nầy bước tới trước mô tả cảnh con quỉ nầy ám vào con trai của ông ta (câu 18a). Ông ta nói: "Tôi đã xin môn đồ thầy đuổi quỉ ấy, song đuổi không được” (câu 18b).
C. Chúa Jêsus yêu cầu người ta đưa cậu con trai ấy đến. Sau khi hỏi người cha mấy câu, Ngài phán: "Kẻ nào tin thì mọi việc đều được cả". Người cha đó mới trả lời rằng: "Tôi tin; xin Chúa giúp đỡ trong sự không tin của tôi!" (các câu 23-24).
D. Chúa Jêsus, đã bày tỏ ra quyền phép của Ngài truyền cho ma quỉ phải ra khỏi cậu con trai đó.
E. Về sau, các môn đồ đã đến “riêng” với Ngài và hỏi: "Sao chúng tôi đuổi quỉ ấy không được?” Chúa Jêsus đáp: "Nếu không cầu nguyện, thì chẳng ai đuổi thứ quỉ ấy ra được" (câu 31).
2. Chúa Jêsus đã sử dụng sự cố nầy để dạy cho các môn đồ biết hai trong số những kỷ luật quan trọng nhất của đời sống Cơ đốc là cầu nguyện và kiêng ăn. Ở đây trong phân đoạn Kinh thánh của chúng ta ở Mathiơ 6, trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Jêsus đưa ra phần dạy dỗ cho cả hai vấn đề.
3. Người Do thái mà Chúa Jêsus giảng đạo cho, họ đã quên phứt phần cơ nghiệp thuộc linh của họ. Cựu ước cung ứng cho chúng ta nhiều trường hợp nói về quyền năng của sự kiêng ăn và cầu nguyện với Đức Chúa Trời.
A. Tôi tớ của Ápraham đã cầu nguyện và Rêbeca, vợ sắp cưới của Ysác bèn xuất hiện.
B. Giacốp đã cầu nguyện và đã vật lộn với Đức Chúa Trời suốt đêm, và Đức Chúa Trời đã đổi tâm thần cay đắng của Êsau, anh Giacốp thành tâm thần yêu thương và phục hoà.
C. Môise đã cầu nguyện và quân Amaléc bị đánh bại.
D. Anne đã cầu nguyện và Đức Chúa Trời đã ban Samuên là con trai ra từ tấm lòng son sẻ của bà.
E. Êsai và Êchêxia đã cầu nguyện và trong 12 giờ đồng hồ, 185.000 quân Asiri đã bị giết.
F. Giacơ 5.16-17 nhắc cho chúng ta nhớ: "Êli vốn là người yếu đuối như chúng ta. Người cầu nguyện, cố xin cho đừng mưa, thì không mưa xuống đất trong ba năm rưỡi. Đoạn, người cầu nguyện lại, trời bèn mưa, và đất sanh sản hoa màu”.
G. Câu 16 của phân đoạn nầy chép: "người công bình lấy lòng sốt sắng cầu nguyện, thật có linh nghiệm nhiều”.
4. Hãy theo sát tôi khi chúng ta học biết từ Chúa Jêsus: Phương thức cầu nguyện đúng đắn và cách kiêng ăn phải lẽ.
I. PHƯƠNG THỨC CẦU NGUYỆN ĐÚNG ĐẮN (các câu 9-15).
A. Huấn luyện cơ bản về sự cầu nguyện.
1. Là một phần của Bải Giảng Trên Núi, Chúa Jêsus cung ứng cho chúng ta một mẫu cầu nguyện. Phần đoạn nầy thường được gọi là: "Bài cầu nguyện của Chúa". Tuy nhiên, tôi gọi đây là: "Bài cầu nguyện mẫu" vì đây không phải là lời cầu nguyện mà Chúa đã cầu nguyện, mà là một khuôn mẫu hay phiên bản, trên đó chúng ta có thể xây dựng đời sống cầu nguyện của chúng ta.
Nếu quí vị sắp sửa xây một ngôi nhà, quí vị phải có một phiên bản hay một sơ đồ. Nếu quí vị sắp sửa đi du hành khắp cả xứ, quí vị phải có tấm bản đồ chỉ ra các xa lộ và thị trấn dọc theo tuyến đường đi. Khi quí vị nghiên cứu Bài Cầu Nguyện Mẫu, hãy nghĩ đấy là tấm bản đồ hay một phiên bản, nó dạy chúng ta biết phải cầu nguyện như thế nào và điều chi có cần trong lời cầu nguyện của chúng ta.
2. Chúa Jêsus phán: "Vậy, các ngươi hãy cầu như vầy..." Nói cách khác, khi quí vị cầu nguyện, hãy cầu theo những dòng mẫu nầy...hãy cầu nguyện như thế nầy...
3. Hãy nhớ trong câu 7, Chúa cảnh cáo chúng ta đừng sử dụng "những lời lặp vô ích". Chúa Jêsus không cung ứng cho chúng ta lời cầu nguyện nầy để chúng ta sẽ lặp đi lặp lại vô ích. Thực ra, không một chỗ nào trong Tân ước chúng ta tìm gặp một lời cầu nguyện nào được lặp đi lặp lại và được sử dụng theo một kiểu cách vô ích, và trống không.
4. Bài Cầu Nguyện Mẫu không phải là một công thức có tính cách ma thuật để lặp đi lặp lại. Thật lấy làm tốt mà học thuộc lòng bài cầu nguyện đó, và suy gẫm nó. Tuy nhiên, tự nó không phải là một lời cầu nguyện, nó chỉ là một tóm tắt trên đó chúng ta có thể thêm vào những lời lẽ riêng của chúng ta, có đủ tính cách thờ phượng, ngợi khen, dâng lời biết ơn, và những điều cầu xin nữa.
5. Bài Cầu Nguyện Mẫu không được cung ứng cho chúng ta như một sự thay thế cho mọi lời cầu nguyện của riêng chúng ta, mà là một kim chỉ nam cho các lời cầu nguyện ấy.
B. Lời cầu nguyện nhắm vào Đức Chúa Cha (câu 9).
1. Chúa Jêsus đã cầu nguyện: "Lạy Cha chúng tôi ở trên trời", khi chúng ta nói đến Đức Chúa Trời của mọi loài thọ tạo, chúng ta cần phải nhắc tới Ngài là “Cha” của chúng ta.
2. Hôm nay có đôi lúc tôi nghe thấy dân sự cầu nguyện với Chúa Jêsus. Tôi không nhìn thấy việc ấy trong Kinh thánh. Khi Chúa Jêsus dạy các môn đồ cầu nguyện, khi nào Chúa Jêsus cầu nguyện Ngài luôn luôn nói tới Cha trên trời. I Timôthê 2.5 cho chúng ta biết rằng Chúa Jêsus là “Đấng Trung Bảo” giữa con người và Đức Chúa Trời.
3. Khi quí vị cầu nguyện, hãy hình dung Đức Chúa Trời là Cha, là Đấng hay lắng nghe con cái Ngài. Điều nầy ám chỉ vài lẽ thật quan trọng:
a. Vì Đức Chúa Trời là Cha chúng ta, Ngài sẽ thành tín với chúng ta.
b. Vì Đức Chúa Trời là Cha chúng ta, Ngài sẽ ban cho chúng ta tình yêu vô điều kiện.
c. Vì Đức Chúa Trời là Cha chúng ta, Ngài sẽ chẳng lìa chẳng bỏ chúng ta đâu.
d. Vì Đức Chúa Trời là Cha chúng ta, chúng ta là kẻ kế tự mọi sự giàu có của thiên đàng. Ngài sẽ tiếp trợ cho từng nhu cần của chúng ta.
e. Vì Đức Chúa Trời là Cha chúng ta, Ngài sẽ lắng nghe khi chúng ta thưa chuyện cùng Ngài.
f. Vì Đức Chúa Trời là Cha chúng ta, Ngài luôn luôn nghênh đón chúng ta về quê hương, dù khi chúng ta lạc sai xa cách Ngài.
4. Chúa Jêsus cũng dạy rằng Cha chúng ta đang ở “trên trời”. Nói như thế có nghĩa là Ngài đang ở “trên các từng trời”, theo thể số nhiều. Đức Chúa Trời là Đấng Toàn Tại, Ngài rất siêu việt, Ngài có mặt khắp mọi nơi. Tôi thích nói Ngài là ở đâu cũng có mặt, có nghĩa là Ngài hiện diện ở khắp mọi nơi. Đức Chúa Trời đang hiện hữu trong các thiên hà xa xôi đối với hệ mặt trời của chúng ta, ấy thế mà Ngài cũng gần gũi sát một bên đối với chúng ta nữa.
5. Chúa Jêsus nói về Đức Chúa Cha: "Danh Cha được thánh". "Thánh" là một từ Anh ngữ cổ xưa, vượt thời gian, được dịch từ chữ gốc Hy lạp, từ chữ nầy chúng ta có các từ ngữ như: “thánh khiết, thánh thiện, nên thánh...". Vì thế cầu nầy đáng phải đọc là: "THÁNH KHIẾT là danh của Ngài".
6. Trong I Phierơ 1.16, Chúa phán cùng chúng ta: “Hãy nên thánh, vì ta là thánh”. Chúng ta phải làm việc để được nên thánh. Đức Chúa Trời là thánh! Bổn tánh Ngài là thánh.
7. Khi chúng ta cầu nguyện với Đức Chúa Cha, chúng ta nên đến trước mặt Ngài không những với sự thân mật như một người con, mà còn với một sự tin kính và kính sợ danh thánh của Ngài.
a. "Hỡi Đức Giêhôva, phàm ai biết danh Ngài sẽ để lòng tin cậy nơi Ngài; Vì Ngài chẳng từ bỏ kẻ nào tìm kiếm Ngài" (Thi thiên 9.10).
b. "Tôi sẽ ngợi khen Đức Giêhôva y theo sự công bình Ngài, và ca tụng danh Đức Giêhôva là Đấng Chí Cao” (Thi thiên 7.17).
c. Thi thiên 20.7 chép: “Kẻ nầy nhờ cậy xe cộ, kẻ khác nhờ cậy ngựa. Nhưng chúng tôi nhờ cậy danh Đức Giêhôva, là Đức Chúa Trời chúng tôi”.
C. Cầu nguyện ước mong Nước Đức Chúa Trời và Ý chỉ của Đức Chúa Trời (câu 10).
1. Chúa Jêsus đã nói với Philát Tổng đốc La mã: "Nước của ta chẳng phải thuộc về thế gian nầy" (Giăng 18.36). Cho đến bây giờ, nước của Chúa là một nước thuộc linh. Cho đến bây giờ nước của Chúa Jêsus nằm trong tấm lòng của những người nam người nữ.
2. Ồ, nhưng Kinh thánh cho chúng ta biết một ngày tới đây khi Nước của Đức Chúa Trời sẽ trở thành một Nước thuộc thể. Chính mình Chúa Jêsus sẽ ngồi trên ngai David tại thành Jerusalem. Lúc bấy giờ chúng ta sẽ cai trị và đồng trị với Ngài.
3. Khi cầu nguyện: "Nước Cha được đến" là nói rằng mục tiêu của chúng ta không nhắm vào các nhu cần và mong muốn tạm thời của chúng ta, mà nhắm vào chương trình của Đức Chúa Trời dành cho con người.
4. Nước của Đức Chúa Trời cũng đến như từng chút một mỗi khi có người được sanh lại.
5. Khi cầu nguyện "Ý Cha được nên" có nghĩa là quí vị mong muốn ý chỉ của Đức Chúa Trời sẽ trở thành ý muốn riêng của quí vị. Nói như thế có nghĩa là quí vị đang bằng lòng bỏ đi điều chi không phải là một phần những gì Đức Chúa Trời muốn dành cho đời sống của quí vị.
6. Âm điệu nầy giống như lời nói đơn sơ, thế nhưng sử dụng chúng làm một khuôn mẫu cho sự cầu nguyện sẽ cách mạng hoá đời sống thuộc linh của quí vị đấy!
D. Sự cầu nguyện nói tới mọi nhu cần của chúng ta (các câu 11-13a).
1. Chúng ta có một nhu cầu về "đồ ăn đủ ngày" (câu 11). "Đồ ăn" làm biểu tượng cho những điều cơ bản. Chúng ta nói về các nhu cần ở đây không thiếu thốn. Ngài không nói: "Xin cho chúng tôi bánh ăn mỗi ngày" hay "Xin cho chúng tôi một bữa ăn 7 món”. "Đồ ăn đủ ngày" làm biểu tượng cho mọi sự có cần cho sự sống: đồ ăn, quần áo, và một mái nhà che nắng che mưa.
2. Chúng ta có một nhu cần về sự tha thứ "các món nợ" (câu 12). Đúng như bánh cần cho thân thể vật lý, sự tha thứ cần cho linh hồn. Khi chúng ta phạm tội chúng ta đang mắc một món nợ. Cầu nguyện có nghĩa là xin Đức Chúa Trời "tha các món nợ của chúng tôi" và rồi bằng lòng "tha kẻ mắc nợ chúng tôi" những ai đã phạm tội nghịch cùng chúng ta.
3. Chúng ta có một nhu cần về sự giải cứu khỏi "điều ác" (câu 13a).
a. Có nhiều người suy gẫm ý nghĩa của lời Chúa Jêsus nói: "Xin chớ để chúng tôi bị cám dỗ". Tại sao Đức Chúa Trời lại làm như thế chứ!?! Ngài là thánh. Danh Ngài được “thánh”. Tại sao một Đức Chúa Trời là Đấng ghét bỏ tội lỗi lại để cho dân sự Ngài bị tội lỗi cám dỗ chứ?
b. Giacơ 1.13 chép: "Chớ có ai đương bị cám dỗ mà nói rằng: Ấy là Đức Chúa Trời cám dỗ tôi; vì Đức Chúa Trời chẳng bị sự ác nào cám dỗ được, và chính Ngài cũng không cám dỗ ai”.
c. Có người cho rằng điều nầy có nghĩa là: "Đừng dẫn chúng tôi đến với một sự thử thách". Tại sao Đức Chúa Trời không nên dẫn chúng ta vào những cuộc thử thách. Giacơ 1.3 chép: "vì biết rằng sự thử thách đức tin anh em sanh ra sự nhịn nhục”. Đức Chúa Trời muốn đức tin chúng ta tấn tới qua các cuộc thử thách.
d. Tôi tin điều nầy có nghĩa là: "Đừng để chúng tôi bị thử thách phủ lút" hay "Xin giúp chúng tôi đừng chịu thua trước sự thử thách". Như thế thì phù hợp với lời cầu xin: "xin cứu chúng tôi khỏi điều ác”.
e. Robert Orbin đã nói: "Có nhiều người muốn được cứu ra khỏi cơn cám dỗ, nhưng lại muốn chạm đến sự cám dỗ đó”.
E. Cầu nguyện đầu phục ý Chúa (câu 13b).
1. Mặc dù có nhiều bản thảo không có chép câu cuối cùng nầy như một phần của Kinh thánh, bài cầu nguyện đẹp đẽ nầy dường như rất đúng. Chúng ta bắt đầu lời cầu nguyện của chúng ta với lời ngợi khen trước sự thánh khiết của Cha chúng ta rồi kết thúc trong việc đem mọi sự đầu phục trước "Nước, quyền, vinh hiển" của Chúa “đời đời”.
2. Khi quí vị dùng những lời cầu nguyện nầy, quí vị đang đem từng phần ý muốn của quí vị mà đầu phục với ý của Đức Chúa Trời.
3. Hãy lắng nghe Vua David nói gì trong I Sử ký 29.10-11: "Hỡi Giêhôva Đức Chúa Trời của Israel, tổ phụ chúng tôi ôi! đáng chúc tạ Ngài cho đến đời đời vô cùng. Hỡi Đức Giêhôva, sự cao cả, quyền năng, vinh quang, toàn thắng, và oai nghi đáng qui về Ngài; vì muôn vật trên các từng trời và dưới đất đều thuộc về Ngài. Đức Giêhôva ôi! nước thuộc về Ngài; Ngài được tôn cao làm Chúa tể của muôn vật".
F. Cầu nguyện bao gồm sự tha thứ (các câu 14-15).
1. Hai câu nầy là phụ lục cho Bài Cầu Nguyện Mẫu. Nghĩa là sau khi thuật lại phần cầu nguyện tóm tắt của Ngài, Chúa Jêsus dừng lại nói: "Thêm một việc nữa về sự tha thứ..."
2. Thứ nhứt, chúng ta cần phải biết rằng tha thứ cho người khác làm cho chúng ta mến thích tấm lòng của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời ưa thích người nào "tha kẻ phạm tội nghịch cùng chúng tôi”. "Tha thứ" ở đây có nghĩa là "bỏ đi”. Hãy tha thứ giống như Giôsép, Êtiên, và Môise.
3. Thứ hai, chúng ta cần phải biết rằng nếu chúng ta không có lòng tha thứ, Đức Chúa Trời sẽ không tha thứ chúng ta đâu (câu 14).
a. Đức Chúa Trời đã phán trong I Phierơ 1.16: "Phải nên thánh, vì ta là thánh". Chúng ta không hành động trong sự thánh khiết, chúng ta không hành động giống như Đức Chúa Trời nếu chúng ta không có lòng tha thứ.
b. Trong lời cầu nguyện của quí vị, một phần trong đó phải là sự tha thứ cho người đã làm mích lòng quí vị. HÃY GIỮ VIỆC CẦU XIN ĐỨC CHÚA TRỜI CẤT BỎ ĐI MỌI CẢM XÚC CAY ĐẮNG.
Một tác giả vô danh đã đề ra theo cách nầy:

Tôi không thể nói "chúng ta" nếu tôi chỉ biết sống cho bản thân mình.
Tôi không thể nói "Lạy Cha" nếu mỗi ngày tôi không gắng sức hành động giống như con cái Ngài.
Tôi không thể nói "sống trên thiên đàng" nếu tôi không chất chứa của cải ở đó.
Tôi không thể nói "danh Cha được Thánh" nếu tôi không phấn đấu để được nên thánh.
Tôi không thể nói "Nước Cha được đến" nếu tôi không dùng sức của mình để đẩy nhanh sự cố kỳ diệu ấy.
Tôi không thể nói "Ý Cha được nên" nếu tôi sống bất tuân đối với Lời của Ngài.
Tôi không thể nói "ở đất như ở trời" nếu tôi không hầu việc Ngài ở đây và ngay bây giờ.
Tôi không thể nói "xin cho chúng tôi hôm nay đồ ăn đủ ngày" nếu tôi sống không thành thật hoặc hoặc tìm kiếm mọi việc bằng sự lừa đảo.
Tôi không thể nói "xin tha tội lỗi cho chúng tôi" nếu tôi chất chứa ác cảm nghịch lại ai đó.
Tôi không thể nói "Xin chớ để chúng tôi bị cám dỗ" nếu tôi cố ý tự đặt mình vào đường lối của sự cám dỗ ấy.
Tôi không thể nói "xin cứu chúng tôi khỏi điều ác” nếu tôi không mặc lấy áo giáp của Đức Chúa Trời.
Tôi không thể nói "Nước Cha được đến" nếu tôi không dâng cho Nhà Vua lòng trung thành thích ứng với Ngài như một thần dân trung tín.
Tôi không thể quy cho Ngài "quyền phép” nếu tôi sợ mọi điều con người có thể làm.
Tôi không thể gán cho Ngài sự “vinh hiển” nếu tôi tìm kiếm vinh quang duy cho bản thân mình, và tôi không thể nói “đời đời” nếu đường chân trời của cuộc đời tôi bị thời gian khống chế.

II. CÁCH KIÊNG ĂN PHẢI LẼ (các câu 16-18).
A. Kiêng ăn là một kỹ luật quan trọng cho mọi tín đồ (câu 16a).
1. Chúa Jêsus không nói "nếu" ngươi kiêng ăn, Ngài phán: "Khi các ngươi kiêng ăn...." (câu 16a, 17a).
2. Xuyên suốt Kinh thánh, chúng ta có nhiều tấm gương về các môn đồ trung tín của Đức Chúa Trời, họ đã kiêng ăn khi họ cầu nguyện. Môise, Samsôn, Samuên, Anne, David, Êli, Exơra, Nêhêmi, Êxơtê, Đaniên, Anne, Giăng Báptít, Chúa Jêsus, sứ đồ Phaolô hết thảy đều đã cung ứng bằng chứng về sự kiêng ăn.
3. Vấn đề là, kiêng ăn không bắt buộc. Trong Cựu ước, vào ngày Lễ chuộc tội, người Do thái đã có một ngày kiêng ăn cho cả nước. Tuy nhiên, chúng ta không bắt buộc phải kiêng ăn trong Tân ước.
4. Mặc dù kiêng ăn không bắt buộc, đây là một trường hợp cung ứng cho chúng ta để biết sử dụng trong một tư thế tình nguyện, không gò ép.
5. Kiêng ăn giúp cho tôi biết dâng một ngày cho sự cầu nguyện vì một tình thế hay một quyết định nào đó. Những cơn đau khi đói khát nhắc cho tôi nhớ phải "cầu nguyện không thôi...".
B. Người Pharisi đã kiêng ăn để cho nhiều người khác nhìn thấy (câu 16b).
1. Chúa Jêsus phán rất rõ ràng: "chớ làm như bọn giả hình" hay những kẻ chuyên “làm bộ”. Một lần nữa Ngài đã bắn một phát súng vào hạng người tôn giáo mù quáng.
2. Ngài phán họ có một “gương mặt nhăn nhó” có nghĩa là "bộ buồn rầu". Họ có bộ dạng tôn giáo rất kỉnh kiền. Họ cố sức trông cho thật thuộc linh. Thực ra, Chúa Jêsus nói họ: “nhăn mặt, cho mọi người biết họ kiêng ăn”. Ý tưởng cho thấy rằng họ đã trang điểm cho bộ mặt có vẻ xanh xao, trông họ yếu đuối với đói khát để cho người ta tưởng họ sống rất thuộc linh kiêng ăn lâu ngày.
3. Tôi đã nhìn thấy hạng người Cơ đốc hành động theo cùng một cách thế đó. Có người làm bộ mặt ra dài sọc giống như họ đã ăn bắp đựng trong cái hộp Cocacola kia! Có người tệ hại lắm, lại là mấy vị Mục sư. Người nào nghiên cứu Kinh thánh phải là hạng người vui sướng nhất. Tuy nhiên, nhiều lúc họ lo sợ có người nhận biết họ và gia đình họ đến nỗi họ tỏ ra nhiệt tình tìm cách làm cho người ta nghĩ mình là thánh khiết lắm vậy.
4. Có người nghĩ họ trông thánh khiết lắm nếu họ luôn luôn mặc đẹp, comlê và cà vạt, không mặc quần sọt và áo thun ba lổ. Nhiều người khác nghĩ không cần phải giữ dáng vẻ thánh khiết: mái tóc rối nùi, thiếu dầu thơm, quần áo nhăn nheo và giày không đánh bóng. Dù quí vị có làm gì đi nữa để ra vẻ thánh khiết, "hãy bỏ đi". Đức Chúa Trời quan tâm đến tấm lòng, chớ không quan tâm đến quần áo.
5. Người Pharisi tỏ ra rất tôn giáo. Họ thích được người khác chú ý tới. Họ thích được để ý đến và được người ta vỗ tay tán thưởng. Điều Chúa Jêsus mong muốn là đây: Đừng sống giống như họ. Hãy nhớ: "bọn đó đã được phần thưởng của mình rồi".
C. Khi quí vị kiêng ăn, hãy kiêng ăn chỉ để cho một mình Đức Chúa Trời trông thấy mà thôi (các câu 17-18).
1. Chúa Jêsus phán: "hãy xức dầu trên đầu và rửa mặt". Trong nền văn hoá của chúng ta, điều nầy có nghĩa là: Hãy đi tắm rửa, cạo râu hoặc trang điểm. Hãy ăn mặc theo như quí vị luôn luôn ăn mặc. Hãy bình thường thôi.
2. Khi quí vị kiêng ăn, quí vị đừng gọi ai chú ý đến mình cả. Chúa Jêsus nói rằng quí vị nên làm cho người ta "không xem thấy ngươi đang kiêng ăn". Không một ai được biết, trừ ra quí vị và Đức Chúa Trời biết mà thôi.
3. Thỉnh thoảng Hội thánh chúng ta tuyên bố một ngày kiêng ăn và cầu nguyện trước một sự cố đặc biệt nào đó. Tôi tin điều đó đúng đấy. Mục đích là đây: bất kỳ ai trong văn phòng hay trong lớp học của quí vị đều không biết quí vị đang kiêng ăn.
4. Kiêng ăn phải tỏ ra rất đơn sơ. Sự kiêng ăn ấy phải tập trung vào Chúa Jêsus. Không ai đề xướng, khoe khoang hay tỏ ra mình đang kiêng ăn. Không nên có một hội nghị về sự kiêng ăn. Chúng ta nên âm thầm kiêng ăn và theo cách mình riêng.
5. Chúa Jêsus phán rằng "Cha là Đấng ở trong chỗ kín nhiệm” sẽ xem thấy "trong chỗ kín nhiệm sẽ thưởng cho ngươi". Nói cách khác, Đức Chúa Trời nhìn thấy lòng tin kính kín nhiệm của chúng ta đối với Ngài. Đức Chúa Trời biết, khi chẳng có ai khác biết và Ngài ban thưởng cho những lời cầu nguyện thành khẩn của chúng ta.
III. HAI LỜI KHUYÊN.
A. Khi ngươi cầu nguyện, hãy nhắm vào Đức Chúa Cha, đừng nhắm vào mọi lời cầu xin của mình.
B. Khi ngươi kiêng ăn, hãy thực hành theo cách riêng tư, đừng làm ở chỗ công cộng.