Thứ Bảy, 14 tháng 12, 2013

Bài 72: Mathiơ 19:13-15: "CHÚA JÊSUS YÊU THƯƠNG CON TRẺ"

MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Chúa Jêsus yêu thương con trẻ
Mathiơ 19:13-15
1. Trẻ con không còn được đánh giá cao trong xã hội của chúng ta. Mỗi ngày chúng ta nghe những bậc cha mẹ và người lớn “đáng tin cậy” khác đang ngược đãi trẻ con bằng lời nói, bằng thể xác và bằng tình dục. Quả là tệ hại, trẻ con thường không được đánh giá cao trong Hội Thánh! Thường thì các chức vụ dành cho thiếu nhi bị đẩy vào sân sau của nhà thờ, ngân khoản bị rút nhỏ lại và các nhân sự của chúng bị xem là những người giữ trẻ hộ thay vì là những nhân sự. Nếu phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta có nói gì về Chúa Jêsus, phân đoạn ấy dạy rằng Ngài yêu thương "con trẻ" và vì cớ đó chúng phải được gần gũi với tấm lòng của chúng ta.
2. Tôi muốn xưng tội trước mặt quí vị về lãnh vực nầy. Là Mục sư và là nhà truyền đạo, tôi có khuynh hướng xem công việc của mình là công việc quan trọng nhất trong Hội Thánh. Đây là thái độ khó có thể chịu nổi. Còn có việc gì quan trọng hơn việc dịu dàng hướng dẫn một con trẻ đến với đức tin nơi Đấng Christ? Tôi mắc nợ nhiều về tri thức Kinh Thánh cơ bản của tôi và đức tin như con trẻ của tôi đối với các giáo viên tin kính, họ không mệt mõi dạy dỗ tôi từ khi còn nhỏ. Thường thì các giáo viên dạy thiếu nhi trong Hội Thánh nầy đang nuôi dưỡng con cái tôi về mặt thuộc linh còn nhiều hơn cả tôi nữa.
3. Có phải quí vị là một chi thể trong Hội Thánh đã xem thường tầm quan trọng của con trẻ không? Tôi có thể chỉ cho quí vị thấy các loại người như thế trong Hội Thánh. Chúng đang dãy chết.
4. Trong xã hội Do thái mà Kinh Thánh ghi lại, con trẻ đã được đánh giá rất cao.
A. Rachên đã ganh tỵ với khả năng của chị mình là Lêa khi có nhiều con và nói: "Hãy cho tôi có con, bằng không, tôi chết” (Sáng thế ký 30:1).
B. Giacốp nói với Êsau: "Ấy là con cái mà Đức Chúa Trời đã cho kẻ tôi tớ anh” (Sáng thế ký 33:5).
C. Khi Giacốp đã già cho đòi Giôsép đem hai con mình đến, ông đáp: "Ấy là những con trai của con mà Đức Chúa Trời đã cho tại xứ nầy" (Sáng thế ký 48:9).
D. Anne đã cầu nguyện xin cho có một đứa con. Khi Đức Chúa Trời nhậm lời, nàng đã gọi con trai mình là Samuên: "Đức Giêhôva đã nhậm lời tôi" (I Samuên 1:20, 28).
E. Văn chương trong Kinh Thánh chỉ ra giá trị của con trẻ.
· Thi thiên 127:3 chép: "Kìa, con cái là cơ nghiệp bởi Đức Giê-hô-va mà ra; Bông trái của tử cung là phần thưởng".
· Thi thiên 127:4-5 chép: "Con trai sanh trong buổi đang thì, khác nào mũi tên nơi tay dõng sĩ. Phước cho người nào vắt nó đầy gùi mình! Người sẽ không hổ thẹn, khi nói năng với kẻ thù nghịch mình tại cửa thành".
· Châm ngôn 17:6 chép: "Mão triều thiên của ông già, ấy là con cháu; Còn vinh hiển của con cái, ấy là ông cha".
· Chúa Jêsus thuật lại câu chuyện nói tới người con trai hoang đàng, người cha trung tín của nó đã nói khi nó quay trở về: "Hãy bắt bò con mập làm thịt đi. Chúng ta hãy ăn mừng, vì con ta đây đã chết mà bây giờ lại sống, đã mất mà bây giờ lại thấy được" (Luca 15:23-24).
· Êphêsô 6:4 dạy bậc làm cha mẹ: "Hỡi các người làm cha, chớ chọc cho con cái mình giận dữ, hãy dùng sự sửa phạt khuyên bảo của Chúa mà nuôi nấng chúng nó".
5. Nôi dung phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta là sự dạy của Chúa Jêsus trong "xứ Giuđê bên kia sông Giôđanh" hay xứ Bêrê về hôn nhân, ly dị, tái hôn và sống độc thân (các câu 1-12). Ở cùng địa điểm đó, "người ta đem con trẻ đến". Mác 10 cho rằng họ đang ngồi trong một ngôi "nhà" và có nhiều bậc cha mẹ liên tục đem con cái của họ đến với Chúa Jêsus.
6. Trong phân đoạn nầy, có ba hành động minh chứng tình yêu thương của Chúa Jêsus dành cho con trẻ.
I. Chúng ta biết Chúa Jêsus yêu thương con trẻ vì cái chạm của Ngài (câu 15a).
A. Cha mẹ đem con trẻ đến với Chúa Jêsus.
1. Có người "đem" những đứa trẻ nầy đến với Chúa Jêsus. Chúng ta có thể quyết chắc rằng đấy chính là cha mẹ của chúng.
2. Ai cũng biết Chúa Jêsus rất yêu thương trẻ con. Ngài đã đuổi quỉ ra khỏi chúng. Trong 18:2, Ngài đã bồng một đứa trẻ trong hai cánh tay của mình như một tấm gương cho các môn đồ về con trẻ thuộc linh. Ở Giăng 4, Ngài đã làm cho con trai của quan thị vệ sống lại.
3. "Con trẻ" ra từ chữ paidia, có ý nói tới một đứa trẻ đang chịu sự dạy dỗ. Đây là một từ phổ thông thường mô tả con trẻ từ sơ sinh đến thiếu niên. Luca 18:15 chép: "Người ta cũng đem con trẻ [brephos, đặc biệt nói tới trẻ sơ sinh] đến cùng Đức Chúa Jêsus…".
4. Kinh Talmud của người Do thái dạy cha mẹ đem con cái của họ đến với các rabi đạo đức cao  để được chúc phước cho. Thường một người cha sẽ đem con trẻ đến với đền thờ cầu thay cho nó. Kế đó ông sẽ trao nó cho các trưởng lão để họ cũng cầu nguyện chúc phước cho đời sống của nó. Chúng ta vẫn làm theo hình thức của tục lệ nầy khi chúng ta dâng con trẻ cho Đức Chúa Trời trong các buổi thờ phượng của chúng ta.
5. Bậc cha mẹ nầy đã đem con cái đến với Chúa Jêsus “đặng Ngài đặt tay trên mình và cầu nguyện cho chúng nó”. Mặc dù chúng chưa biết rõ Chúa Jêsus là Đấng Mêsi, hãy tưởng tượng tư tưởng của Đấng Chịu Xức Dầu của Đức Chúa Trời đang bồng ẳm con cái của quí vị trong vòng tay của Ngài và chúc phước cho nó xem.
6. Tôi hình dung một hàng dài những bậc phụ huynh với con cái bé mọn của họ đang vây qaunh ngôi nhà trong xứ Bêrê đó.
7. Khi Chúa Jêsus "đặt tay Ngài trên chúng" đấy không phải để cho chúng được cứu, chịu phép báptêm hay chữa lành gì cả đâu. Sự cứu rỗi chỉ diễn ra khi một người nhơn đức tin mà đến với Chúa Jêsus. Phép báptêm là một hành động nhúng mình xuống nước sau khi được cứu, là bước đầu tiên của đời sống Cơ đốc. Nếu Chúa Jêsus đang chữa lành cho chúng một bịnh tật gì đó, Kinh Thánh sẽ nói ra điều đó. Không, Ngài đang chúc phước cho chúng.
8. Chúa Jêsus đang làm theo những truyền thống của các vị tộc trưởng. Ysác đã chúc phước cho Giacốp và Êsau mặc dù Giacốp đã cướp lấy quyền con trưởng của Êsau, anh người. Trong lúc tuổi già, Giacốp đã đặt hai tay mình trên đầu hai con của Giôsép là Épraim và Manase, rồi chúc phước cho chúng.
9. Hãy tưởng tượng Cứu Chúa đang ẳm bồng một đứa nhỏ, đặt tay trên mình chúng, mỉm cười, ngước nhìn lên trời và chúc phước cho từng đứa một.
10. Ngài biết rõ mấy đứa trẻ nầy không những là vô tội và theo bản chất là hạng tội nhân. Tuy nhiên, Ngài yêu thương và vẫn yêu thương tính cởi mở và đáng tin cậy của chúng.
B. Cha mẹ vẫn còn đem con cái họ đến với Chúa Jêsus.
R.C.H. Lenski đã viết: "Giống như chiếc bông hoa trong vườn khoe sắc dưới ánh sáng mặt trời, cũng một thể ấy có trong đứa trẻ một khuynh hướng mầu nhiệm đối cùng sự sáng đời đời. Bạn có để ý thấy điều mầu nhiệm nầy không, khi bạn nói cho đứa trẻ nhỏ nhất về Đức Chúa Trời, nó không hề tra hỏi với sự lạ lùng và ngạc nhiên: ‘Đức Chúa Trời là ai hay Ngài làm gì? Con chưa hề trông thấy Ngài’ – nhưng lắng nghe câu chuyện với gương mặt rạng ngời mặc dù đấy chỉ là những âm thanh dịu dàng yêu thương phát ra từ con người?" (MacArthur, p.180).
Truyện bằng tranh trong tạo chí Forbes phô diễn một người cha mẫu mực đang trò chuyện với cậu con trai nhỏ bé của mình, ông đang dạy nó tri thức của người làm cha: "Nầy con, hãy nhớ, đây là những năm tháng miễn thuế của con. Hãy tận hưởng chúng". Khi con cái chúng ta còn nhỏ, chúng ta phải tận dụng tối đa mọi cơ hội chúng ta có.
1. Bậc cha mẹ có thể đem con mình đến với Chúa Jêsus bằng cách nào!?! Hãy đưa chúng đến với Hội Thánh. Hãy trò chuyện với chúng về Chúa. Hãy cầu nguyện với chúng. Hãy cung ứng cho chúng ảnh hưởng thuộc linh mà quí vị có thể cung ứng.
2. Chúng ta hãy lưu ý một số lý do cụ thể phải đem con cái chúng ta đến với Chúa Jêsus:
a. Phụ huynh phải đem con cái mình đến với Chúa Jêsus để học biết về Đức Chúa Trời.
b. Phụ huynh phải đem con cái mình đến với Chúa Jêsus để học biết các giá trị đạo đức của Đức Chúa Trời đã được dạy dỗ trong Lời của Ngài.
c. Phụ huynh phải đem con cái mình đến với Chúa Jêsus để được Đức Chúa Trời chúc phước cho.
d. Phụ huynh phải đem con cái mình đến với Chúa Jêsus để chúng sẽ được cứu.
e. Phụ huynh phải đem con cái mình đến với Chúa Jêsus hầu cho chúng sẽ trở thành hạng môn đồ biết đầu phục.
f. Phụ huynh phải đem con cái mình đến với Chúa Jêsus hầu cho chúng biết truyền đạt Tin lành cùng các giá trị Cơ đốc cho thế hệ hầu đến.
3. Bậc cha mẹ phải cảm tạ Đức Chúa Trời vì các chức vụ dành cho con trẻ!
II. Chúng ta biết Chúa Jêsus yêu thương con trẻ vì mạng lịnh của Ngài (các câu 15b-16a).
A. Các môn đồ quở trách con trẻ (câu 15b).
1. Thậm chí khi Chúa Jêsus đang rờ đến và chúc phước cho "con trẻ", các môn đồ đã "quở trách" chúng và bố mẹ chúng.
2. Động từ Hy lạp dùng cho “quở trách” có ý nghĩa "khiển trách hay cấm đoán". Từ nầy mang ý tưởng đe doạ. Họ đang cố gắng hù doạ mấy đứa trẻ với một tư thế khó chịu.
3. Tại sao chứ? Tại sao họ muốn ngăn trở mấy đứa trẻ nầy không được ngồi gần Chúa Jêsus? Cho phép tôi đưa ra ba lý do.
a. Họ đang bảo vệ cho Chúa Jêsus. Họ biết rõ Ngài cần nghỉ ngơi và ở riêng một mình.
b. Họ không cảm thấy con trẻ là quan trọng. Nếu Ngài nhìn xem ai đó, Ngài sẽ thấy họ đang ở trong cảnh có cần thực sự.
c. Họ lấy làm mệt mỏi vì trẻ con. Họ không muốn rắc rối và ồn ào. Đây là lý do thành thực nhất.
4. Kỳ quặc làm sao, các môn đồ nầy đã sống gần gũi với Chúa Jêsus đến nỗi họ có thể cảm nhận được nhịp đập của quả tim trong lồng ngực Ngài, thế mà họ thực sự chẳng nhận biết được tấm lòng của Ngài.
B. Chúa Jêsus quở trách các môn đồ (câu 16a).
1. Mác 10:14 chép: "Đức Chúa Jêsus thấy vậy, bèn giận…". Bản Kinh Thánh NIV dùng từ "indignant" (căm phẫn). Đây là một từ rất mạnh chỉ được sử dụng ở đây trong toàn bộ Tân ước. Từ nầy đến từ một từ kép có nghĩa là "buồn nhiều lắm". Bầy trẻ đứng xếp hàng dọc kia đã làm cho Chúa Jêsus nổi giận.
2. Tại sao Chúa Jêsus nổi giận như thế chứ? Bởi vì Ngài yêu thương trẻ con. Ngược lại với những gì các môn đồ đã tin, Ngài mong muốn được ở với chúng. Ngài vui hưởng tình bầu bạn của chúng! Ngài yêu thương con trẻ. Vài phân đoạn Kinh Thánh khác nói điều nầy rất rõ ràng.
a. Trong Giăng 16:21, Ngài phán về niềm vui mừng của người mẹ sau khi sanh đứa con của mình.
b. Trong Luca 11:7 ở Thí dụ nói tới người bạn bền đỗ, Ngài phán về tình cảm của người cha đang ấp ủ con mình trong lúc ban đêm.
c. Ở một trong những bối cảnh cảm động nhất của Tin lành, Mác 5:41 ghi lại thể nào Ngài đã bước tới giường ngủ của con gái đã chết của Giairu. Ngài cầm lấy tay nó rồi phán: "Talitha cumi" "Hỡi con gái nhỏ, ta truyền cho mầy, hãy chờ dậy!"
3. Trở lại với phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta, Chúa Jêsus phán cùng các môn đồ: "Hãy để con trẻ đến cùng ta, đừng ngăn trở".
C. Chúa Jêsus quở trách những kẻ ngăn trở con trẻ.
1. Có bao giờ quí vị nghe nói có ai đó than phiền về sự ồn ào, lộn xộn và các hành động của bầy trẻ nhỏ ở trong nhà thờ chưa? Có bao giờ quí vị đưa ra những lời than phiền đó chưa? Tôi thực sự tin rằng những âm thanh ấy là những âm điệu vui vẻ trong lỗ tai của Chúa Jêsus.
2. Có nhiều nhà thờ, ở đó họ lấy làm bực mình vì con trẻ. Tất nhiên những nhà thờ đó đang dãy chết và có nhà thờ đã chết rồi.
3. George MacDonald từng nói rằng ông lấy làm hồ nghi Cơ đốc giáo của con người nếu trẻ con không thấy chơi đùa trước ngưỡng cửa của ông!
III. Chúng ta biết Chúa Jêsus yêu thương trẻ con vì sự dạy của Ngài (các câu 16b-17).
A. Chúa Jêsus dạy rằng muốn bước vào Nước Thiên Đàng chúng ta phải trở nên giống như Con trẻ.
1. Chúa Jêsus phán khi thấy các môn đồ quở trách chúng: "Hãy để con trẻ đến cùng ta, đừng ngăn trở; vì nước thiên đàng thuộc về những kẻ giống như con trẻ ấy".
2. Chúa đang cũng cố mọi điều mà Ngài đã dạy dỗ rồi ở 18:3: "…nếu các ngươi không đổi lại và nên như đứa trẻ, thì chẳng được vào nước thiên đàng đâu".
3. Điều nầy không có nghĩa là chúng ta phải sống vô tội. Trẻ con không phải là vô tội đâu. Chúng sanh ra đã là tội nhân rồi.
4. Chúa Jêsus có ý nói rằng trước khi một người được cứu, người ấy phải nhận biết mình bất lực giống như một đứa trẻ và đặt hết lòng tin cậy nơi Chúa giống như một đứa trẻ tin cậy cha của nó vậy.
5. Trong lời của một bài thánh ca xưa, chúng ta phải nói: "Trong tay tôi chẳng có một điều gì, tôi chỉ bám lấy thập tự giá mà thôi".
B. Chúa Jêsus dạy ba lẽ thật về con trẻ.
1. Thứ nhứt, con trẻ sẽ được cứu.
a. Nếu có một câu nói dành cho công cuộc truyền giáo cho thiếu nhi, thì đây là câu nói đó! Khi bất cứ đứa trẻ nào đạt tới chỗ nó nhìn biết tội lỗi của mình và cần một Cứu Chúa, nó sẽ được cứu.
b. Người ta thường thắc mắc, làm sao tôi biết con tôi sẵn sàng thực sự muốn được cứu? Nó đáp ứng với tội lỗi như thế nào? Nếu nó buồn rầu vì tội lỗi của nó, nó đã sẵn sàng để được cứu.
2. Thứ hai, trẻ con đang chín mùi cho công cuộc truyền giáo.
a. Hội truyền giáo hải ngoại SBC trưng dẫn nghiên cứu của viện Gallup như sau: 19 trong số 20 Cơ đốc nhân đã được cứu trước độ tuổi 25. Ở tuổi 25, 1/10.000 sẽ được cứu; ở tuổi 35, 1/50.000; ở tuổi 45, 1/200.000; ở tuổi 55, 1/300.000; ở tuổi 75, 1/700.000.
b. D.L. Moody có lần trở lại với một buổi nhóm và tường thuật lại hai người rưỡi trở lại đạo. "Hai người lớn và một đứa trẻ, tôi nghĩ thế?" khán thính giả hỏi. Moody nói: "Không, hai đứa trẻ và một người lớn. Trẻ con dâng cả đời sống của chúng. Còn người lớn chỉ có phân nửa để dâng mà thôi".
3. Thứ ba, con trẻ sẽ được phước.
a. Câu 15 chép Chúa Jêsus "bèn đặt tay trên chúng nó, rồi từ đó mà đi".
b. Quí vị có thể tưởng tượng chúng đang xích lại gần Ngài không? Chúng biết Ngài yêu thương chúng. Ngài tử tế vỗ về và hôn chúng.
c. Chúng ta là con cái của Ngài. Ngài ao ước muốn được bồng ẳm chúng ta trên hai cánh tay của Ngài. Galati 4:6 chép: "Lại vì anh em là con, nên Đức Chúa Trời đã sai Thánh Linh của Con Ngài vào lòng chúng ta, kêu rằng: A-ba! Cha!"
d. Chúa Jêsus "bèn đặt tay trên chúng nó". Quí vị đã được bàn tay Ngài chạm đến chưa? Hai bàn tay có những mũi đinh đóng xuyên qua chúng là vì quí vị đấy.

***


Thứ Sáu, 9 tháng 8, 2013

Bài 71: Mathiơ 5:27-30: "Lăng Nhăng Hay Tà Dâm"


MATHIƠ – VUA CÁC VUA
SỨ ĐIỆP CỦA NHÀ VUA
Lăng nhăng hay tà dâm?

Mathiơ 5:27-30 

1. Steve Farrar trong quyển sách nổi tiếng Pointman viết: “Chúng ta hãy bỏ đi cách nói năng có bề ngoài nghiêm chỉnh, song thực tế chẳng có nghĩa lý chi hết. Chúng ta hãy đặt sự việc kia lên bàn đi. Chúng ta gọi đó là sự tà dâm!?! Trong chiến trận của gia đình, tà dâm là hành động bội tín. Chúng ta đã phát triển một từ ngữ có phần lịch sự và có tính nguỵ biện. Tà dâm đã trở thành một vụ ‘lăng nhăng’. Khi người chồng lìa bỏ vợ con vì một người đờn bà khác rồi hành động một cách hấp tấp như một đứa trẻ mới lên cấp hai, đấy không phải là ‘lăng nhăng’ đâu. Đó là tà dâm… Một vụ lăng nhăng… Từ ngữ ấy có một phần đẹp đẽ đấy, nghe kêu lắm đó… Chắc chắn đây không phải là một từ ngữ mang nặng tính phán xét giống như chữ tà dâm. Chữ ‘lăng nhăng’ khá mượt mà và chẳng có ý đe doạ… Khi tôi còn nhỏ, tôi thường đi xem hội chợ. Chúng tôi có thì giờ để ăn kẹo bông, lái xe Ferris, và chơi game trong nhà có mái vòm. Khi bạn đi hội chợ, bạn để tất cả các trách nhiệm của cuộc sống đời thường lại sau lưng, ít nhất là trong mấy tiếng đồng hồ. Cuộc sống có nhiều trò đùa ở hội chợ. Có thể đó là lý do tại sao chúng ta gọi tà dâm là một vụ lăng nhăng. Nó để lại sau lưng mọi trách nhiệm của bạn”.
2. Thật là thú vị khi thấy một quyển sách đã được viết ra 2.000 năm vẫn còn có hiệu lực như thế. Lời lẽ của Chúa Jêsus trong bài giảng trên núi vẫn thông dụng như cuốn phim hoặc chương trình TV mới mẻ nhất. Hãy lắng nghe các thông tin biểu hiện bằng các con số về tà dâm.
                  A. Theo tờ USA Today, 39% đờn ông và 27% đờn bà đang sinh sống ở Mỹ đáp ứng với phần tra cứu nói họ có một vụ lăng nhăng ngoại tình, đó là sự tà dâm.
                  B. Các nghiên cứu chuyên về các vụ việc ngoại tình nhắm vào số người ở độ tuổi 40 cho thấy rằng ít nhất 50% những người đờn ông đã có gia đình tại Mỹ và 26% những phụ nữ đã có gia đình, họ có những vụ lăng nhăng khi đến tuổi 40. Một số nhà nghiên cứu đều nghĩ số phụ nữ đã có những vụ lăng nhăng có thể lên tới 50%.
                  C. Fred Humphrey – cựu chủ tịch chương trình Liệu Pháp Tâm Lý Hôn Nhân và Gia Đình của Mỹ nói: “Ước đoán của tôi về số người có một vụ lăng nhăng là rất nhiều và họ đã không dám nhận như thế”. Các chuyên gia nói các vụ lăng nhăng ngoại tình hiếm có những cứu cánh vui vẻ. Humphrey chỉ ra rằng khoảng phân nửa các cặp hôn nhân vừa ly dị vừa ly thân khi người nầy hay được vụ lăng nhăng của người kia. Nhiều người khác tinh thần đau khổ khi cố gắng cứu lấy mối tương giao. Ông nói: “Hay được tin tức ấy, tấm lòng liền đau đớn và nổi giận dữ ngay, tiếp đến luôn luôn có một hàng rào ngăn trở, ở một chừng mực nào đó”.
            3. Đối với tôi việc nầy không gây ngạc nhiên lắm đâu, vì tội phạm về tình dục rất hay có giữa vòng những người chưa tin Chúa. Sự  thật đáng buồn đó lại thường hay có giữa vòng những người có đức tin nữa. Tôi chẳng hồ nghi gì, vì có những người nghe lời tôi nói đã kinh nghiệm sự cám dỗ, phạm vào tình dục và vướng lấy nỗi đau đớn của sự tà dâm.
            4. Phân đoạn nầy là một chuỗi liên tục của “Bài Giảng Trên Núi” của Chúa Jêsus. Lời Đức Chúa Trời có nội dung trước tiên là nội tại, rồi mới ngoại tại. Không những Đức Chúa Trời quan tâm tới những gì chúng ta làm, Ngài còn quan tâm tới những gì chúng ta nghĩ suy nữa. Chúng ta hãy xét qua 3 phương diện của phân đoạn đang có trước mặt chúng ta: NAN ĐỀ, KIỂU CÁCH,SỰ PHÒNG NGỪA bệnh tà dâm.

I. NAN ĐỀ VỀ SỰ TÀ DÂM (câu 27).
      A. Chúa Jêsus bắt đầu phân đoạn nầy bằng cách trưng dẫn Điều Răn Thứ Bảy trong 10 Điều Răn (Xuất Êdíptô ký 20:14). Ngài phán: “Các ngươi có nghe lời phán rằng: Ngươi chớ phạm tội tà dâm”. Người Dothái quá rành với câu nầy rồi. Đây là một bài giảng thường trực của người dòng Pharisi.
      B. Tà dâm, nói thẳng thừng đến việc ăn nằm xác thịt với ai đó hơn người bạn đời của một người. Nguyên tắc ám chỉ ở đây còn rộng hơn thế. Tình dục trước hôn nhân là tình dục ngoại tình.
      C. Những cám dỗ về xác thịt đã hiện hữu từ khi con người sa vào tội lỗi; tuy nhiên, trong nền văn hoá hiện đại, điên dại về tình dục của chúng ta, nó đã lên tới mức lan rộng như bệnh dịch vậy.
            1. Tình dục buông thả oanh tạc chúng ta khắp mọi nơi. Từ những thông báo, tạp chí, thương mại, quảng cáo… Mọi sự từ kẹo cao su đến các phụ tùng xe hơi đều sử dụng tình dục như một lời chào mời mua bán.
            2. Hollywood đang ở trong cuộc tìm kiếm để xem coi có bao nhiêu nội dung tình dục bị ngăn cấm mà nhiều người Mỹ sẽ chấp nhận. Giờ đây có nhiều mạng lưới chương trình giờ cao điểm trình bày những cảnh khoả thân tình dục. Mỗi năm các hãng phim chính đưa ra những giới hạn, trình bày ngày càng nhiều phần thân thể hơn. Điều nầy thường tạo ra nhiều vụ tai tiếng cho một ngôi sao điện ảnh khi trưng bày da thịt nhiều quá. Thực như thế đấy! Ngay lúc nầy đây, nam hay nữ diễn viên nào không trưng bày cơ thể sẽ không tìm được bao nhiêu việc làm.
            3. Thậm chí trong những tháp ngà của học viện và giữa vòng nhiều Cơ đốc nhân đang có những hội nghị chuyên đề, sách báo, băng ghi âm mọi thứ đều được cung ứng để nâng cao sự thưởng thức về tình dục.
            4. Mọi sự tôi nhắc tới là hành động khiêu dâm kín đáo nhẹ mà thôi. Dây chuyền tiện lợi các cửa hàng trong thành phố của chúng ta đang bán những tạp chí khiêu dâm chung môt cái kệ với tạp chí Giữ Nhà Sao Cho Tốt và tờ Tin Tức Thế Giới của Mỹ. Hầu hết từng cộng đồng ở Mỹ đều có thêm nhiều cửa hàng sách báo và các câu lạc bộ vũ thoát y.
            5. Tại sao chúng ta ngạc nhiên khi tội phạm về tình dục lúc nào cũng ở cao độ cả vậy? Tại sao dường như người ta bị sốc khi nghe thấy gần phân nửa số người đã kết hôn trong quốc gia nầy đã phạm tội tà dâm? Tại sao chúng ta lấy làm lạ khi hơn phân nửa những cuộc hôn nhân trong đất nước nầy lại kết thúc trong ly dị?
            6. Nền văn hoá của chúng ta đang dạy cho người ta phải nghĩ rằng tình dục là một nhu cần khác của xác thịt không có một tác dụng phụ nào hết. Tạp chí Eternity trưng dẫn Hugh Hefner – nhà sáng lập ra tờ Playboy, ông ta cho biết:
            “Tình dục là một chức năng của cơ thể. Một chức năng mà con người có giống như các loài động vật khác. Giống như ăn, uống và ngủ vậy. Đó là một đòi hỏi của thể xác cần phải được làm cho thoả mãn. Bạn sẽ gặp phải đủ thứ loạn thần kinh chức năng và ức chế về tâm thần. Tình dục phải có mặt ở đây. Chúng ta hãy quên đi tính kiểu cách đoan trang khiến cho chúng ta tránh né tình dục. Hãy ném bỏ đi mọi điều ức chế, hãy tìm một cô gái có tính sẵn lòng và hãy để cho bản năng của bạn hoạt động”.
            7. Sự cám dỗ về tình dục đã đạt tới mức lan truyền như một bệnh dịch rồi. Đừng mong sẽ có gì khá hơn. Mà sẽ ngày càng tệ hại hơn mà thôi. II Timôthê 3:13 chép: “Nhưng những người hung ác, kẻ giả mạo thì càng chìm đắm luôn trong điều dữ, làm lầm lạc kẻ khác mà cũng lầm lạc chính mình nữa”.
      D. Cần phải hiểu rằng Đức Chúa Trời không xem tình dục là tội lỗi.
            1. Đức Chúa Trời đã dựng nên và đã ấn định tình dục với ý định ban cho chúng ta sự khoái lạc, sự thoả mãn và công tác nhân giống con người.
            2. Đức Chúa Trời đã đặt ra những giới hạn về tình dục. Tình dục chỉ được phép trong vòng hôn nhân với người bạn đời của mình mà thôi.
            3. Khi Đức Chúa Trời đặt Ađam và Êva sống chung với nhau, Ngài phán: “Cả hai sẽ nên một thịt” (Sáng thế ký 2:24).
            4. Hêbơrơ 13:4 chép: “Mọi người phải kính trọng sự hôn nhân, chốn quê phòng chớ có ô uế, vì Đức Chúa Trời sẽ đoán phạt kẻ dâm dục cùng kẻ phạm tội ngoại tình”. Bất cứ lúc nào đôi hôn phối hiệp nhau trong sự liên ứng và khoái lạc đều vì sự tôn vinh Đức Chúa Trời. Dù vậy Đức Chúa Trời sẽ xét đoán người nào lạm dụng tình dục.
            5. Nhã ca là quyển sách nói về tình dục!
            6. Châm ngôn 5:18-19 chép: “Nguyện nguồn mạch con được phước; Con hãy lấy làm vui thích nơi vợ con cưới buổi đang thì, Như nai cái đáng thương, và hoàng dương có duyên tốt, Nguyện nương long nàng làm thỏa lòng con luôn luôn, Và ái tình nàng khiến cho con say mê mãi mãi”.
            7. Hãy lưu ý sự dạy của Phaolô đối với những cặp hôn phối ở I Côrinhtô 7:3-5.
            8. Roger Stauback nói với Phyllis George: “Tôi ăn nằm nhiều lần với Giôên Nameth. Tôi chỉ làm điều đó với một người đờn bà mà thôi”.
      E. Đức Chúa Trời luôn luôn xét đoán tà dâm là tội lỗi.
            1. Con người tìm cách bào chữa cho tội tà dâm bằng nhiều cách: người bạn đời không đáp ứng, không chung thuỷ, nhạt nhẻo, không hấp dẫn, v.v…
            2. Luật pháp Môise ghi rằng tà dâm bị kết án tử hình (Lê vi ký 20:10; Phục truyền luật lệ ký 22:22). Người Pharisi và các thầy thông giáo hội ý ném đá người đờn bà mà họ mang đến cho Chúa Jêsus (Giăng 8:4-5).
            3. Khi một Cơ đốc nhân phạm tội tà dâm, người ấy đem Đấng Christ theo vào phòng ngủ với mình (I Côrinhtô 6:13b-20).
            4. Một trong các sách xưa nhất trong Kinh Thánh, sách Gióp chứa câu nầy: “Nếu lòng tôi bị người nữ quyến dụ, nếu tôi rình rập ở nơi cửa của lân cận tôi, nguyện vợ tôi xây cối cho người khác, và kẻ khác nằm chung cùng nàng. Vì điều ấy vốn tội trọng gớm ghê, một tội ác đáng bị quan xét đoán phạt”.
            Hilde Houlding – điều phối viên của cơ quan tư vấn Calgary Family mô tả một vụ lăng nhăng theo cách nầy: “Một vụ lăng nhăng thường là một nổ lực để tìm kiếm một góc thiên đàng, theo đuổi niềm tin cho rằng nếu một người tìm đúng người bạn tình thì sẽ là hạnh phúc ngay và mọi sự sẽ rơi đúng chỗ. Một vụ lăng nhăng thường làm phu phỉ chuyện hoang tưởng nầy cho tới khi tự nó trở thành một mối quan hệ cần phải có luôn luôn và được truy xuất theo ánh sáng lâu dài”. Khi người ta phạm tội tà dâm, họ quên rằng khi họ bước vào bất kỳ một mối quan hệ nào mới mẻ, họ luôn luôn đem theo chính bản thân họ. Bài hát có lời: “Bất cứ đâu bạn đi tới, thì cái tôi của bạn có mặt ở đó rồi”.

II. KIỂU MẪU CỦA SỰ TÀ DÂM (Câu 28).
      A. Chúa Jêsus cung ứng ý nghĩa đích thực của điều răn nầy.
            1. Hãy so sánh câu 28 với câu 27. “Các ngươi có nghe lời phán rằng… Song ta phán cho các ngươi biết…”. Chúa Jêsus đang phán: “như là có quyền, chớ không giống các thầy thông giáo” (7:29).
            2. Ngài không nói về tôn giáo chỉ có bề mặt, nặng phần trình diễn của người dòng Pharisi, mà nói tới vấn đề chơn thật ở đàng sau điều răn.
            3. Mục đích của Ngài: ấy là trước khi sự tà dâm diễn ra trên giường ngủ, thì nó đã diễn ra ở trong đầu rồi.
      B. Chúa Jêsus nói rằng “động tình ham muốn” là tà dâm ở trong lòng.
            1. Thưa quý ông, tất cả chúng ta đều công nhận có nhiều phụ nữ xinh đẹp. Thưa quý bà, quý vị đều từng gặp gỡ nhiều người đờn ông điển trai. Đấy không phải là điều Chúa Jêsus phán dạy ở đây.
            2. Khi một người “ngó đờn bà mà động tình ham muốn” người ấy chủ ý ngó nàng để thoả mãn dục vọng tội lỗi của xác thịt mình. Thưa quý ông, chúng ta hãy sống cho thành thật, hết thảy chúng ta đều đã phạm tội ở đây.
            3. Ngó mà động tình ham muốn không khiến cho một người phạm tội tà dâm ở trong lòng. Đó là tội của tấm lòng gây ra cái ngó động tình ham muốn.
            4. Đây không phải là sự cám dỗ bất ngờ và không thể tránh được về tình dục đâu!
Hãy tưởng tượng bối cảnh nầy. Một Cơ đốc nhân đã có vợ, đang làm việc trong văn phòng có nhiều phụ nữ xinh đẹp. Một trong số các phụ nữ đó đặc biệt dễ nhìn khiến cho người nầy nhận biết rằng cô ta vốn ưa thích tình dục. Cô ta ăn mặc hở hang và tìm cách khêu gợi ông ta bằng lối nói chuyện và cách xử sự của cô ta. Satan sẽ dùng người nữ nầy để cám dỗ người đờn ông kia, nhưng dù ông ta cảm thấy có một sự cuốn hút về xác thịt, đấy chưa phải là tà dâm ở trong lòng.
            5. Tà dâm ở trong lòng là khi người nầy suy nghĩ những tư tưởng về tình dục với ai đó và đang trần truồng với họ.
            6. Đavít không phạm tội khi nhìn thấy Bátsêba đang tắm. Ông đã phạm tội khi ông bắt đầu động tình ham muốn nàng và sai vời nàng.
            7. Tội lỗi luôn luôn bắt đầu ở trong trí (Giacơ 1:13-16).
            8. Thí dụ trong phân đoạn Kinh Thánh nói về một người nhìn xem người nữ mà động tình ham muốn. Tuy nhiên, nguyên tắc về động tình ham muốn cũng áp dụng cho phụ nữ nữa.
Cách đây mấy năm, Arthur Pink đã viết: “Nếu ngó mà động tình ham muốn tai hại như một tội lỗi, thì người nào tự phơi bày ra với ý khao khát muốn được người ta nhìn ngó và sau đó động tình dục… Không phải tội ít mà là tội nhiều. Trong hình thái nầy không những đây là trường hợp khiến cho nam giới phạm tội, mà nữ giới cũng cám dỗ họ phạm tội nữa”.
            9. Gióp nói: “Tôi đã có lập ước với mắt tôi; Vậy, làm sao tôi còn dám nhìn người nữ đồng trinh?” (31:1).
            10. chúng ta cần phải lưu ý trường hợp của Giôsép và hãy bỏ chạy khi thấy sự cám dỗ qua mạnh (I Côrinhtô 10:13).

III. BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA SỰ TÀ DÂM (các câu 29-30).
A.      Con người đã sử dụng một số phương tiện quyết liệt để tránh né tội phạm về tình dục.
            1. Origen ở Alexandria, một trong các lãnh đạo của Hội thánh đầu tiên đã tự làm mình ra hoạn để thắng hơn sự cám dỗ của tình dục.
            2. A.J. Gossip – một nhà truyền đạo người Tô cách Lan đã kể về một thanh niên đã nổi hứng cắt đứt bàn tay của mình bằng chiếc dao cạo.
            3. Có người thậm chí đã có gia đình lại quyết định không giao tiếp về tình dục vì họ tin mọi kinh nghiệm về tình dục đều là tội lỗi.
      B. Lời lẽ của Chúa Jêsus ở các câu 29-30 đều là nghĩa bóng, chớ không phải nghĩa đen.
            1. Trong câu 29, Ngài phán rằng nếu “mắt bên hữu xui cho ngươi phạm tội”, người phải “móc mà quăng nó cho xa”. Nếu chúng ta làm theo nghĩa đen thì sẽ có nhiều người một mắt trong phòng nầy!
            2. Trong câu 30, Ngài phán rằng nếu “tay hữu xui cho ngươi phạm tội” thì tốt hơn “hãy chặt mà liệng nó cho xa ngươi đi”. Một lần nữa, một sự giải thích theo nghĩa đen sẽ khiến cho có rất nhiều người còn có một tay mà thôi.
            3. Mệnh đề “xui cho ngươi phạm tội” ra từ chữ Hy lạp skandalizo, cơ bản có ý nói tới “vấp ngã”. Chữ nầy được dùng nói tới miếng mồi khiến cho con thú bị lọt bẫy. Bất cứ điều chi khiến cho chúng ta phạm tội đều là miếng mồi, và chúng ta cần phải hiểu biết nhiều hơn.
      C. Chúng ta hãy chú ý vài chìa khoá cho việc thắng hơn sự cám dỗ về tình dục, đặc biệt là tà dâm, dù là lý trí hay xác thịt.
            1. Đặt phần LÃNG MẠN vào cuộc hôn nhân của bạn.
                  a. Thưa quý bà, chẳng có một điều gì giữ nổi đôi mắt và hai bàn tay của chồng quý vị, đừng lạc lối theo kiểu lãng mạn tại nhà. Quý vị có làm đẹp hết sức cho chồng mình không!?!
                  b. Còn đờn ông thì chẳng có gì giống như lịch sự, nhã nhặn và phong thái. Hãy lắng nghe vợ mình xem. Nàng ngày càng đáng ao ước và đáng sẵn sàng cộng tác hơn.
                  c. Hãy nhớ I Côrinhtô 7:5 chép: “Đừng từ chối nhau, trừ ra khi hai bên ưng thuận tạm thời, để chuyên việc cầu nguyện; rồi trở lại hiệp cùng nhau, kẻo quỉ Sa-tan thừa khi anh em không thìn mình mà cám dỗ chăng”.
David Mains – tác giả của quyển “50 ngày mạo hiểm thuộc linh”, ông nói: “Khi hai người đã định trong trí rằng ‘Chúng ta hãy yêu nhau’; rồi họ đưa ra lời thề hứa trước mặt Đức Chúa Trời và nhiều người chứng kiến. Từ ngày đó trở đi họ không còn so sánh nữa. Mỗi người phải nói: ‘Toàn bộ tình cảm của tôi được dành cho người bạn đời của tôi rồi, và tôi sẽ không cho phép bản thân mình suy nghĩ lãng mạn về người khác nữa”.
Mục sư James Dobson đã viết: “Chìa khoá cho một cuộc hôn nhân lành mạnh là giữ đôi mắt của bạn sao cho mở rộng ở trước đám cưới – rồi sau đó đóng lại một bên”.
                  d. Còn người độc thân thì sao? Ở đây là hai lời khuyên cho việc thắng hơn sự cám dỗ khi không có bạn đời.
                        (1) Hãy cầu thay cho người bạn đời trong tương lai của bạn và quyết định hy sinh để giữ thanh sạch cho chàng hay cho nàng từ lúc bây giờ!
                        (2) Hãy suy nghĩ về người mà với họ bạn bị cám dỗ. Bạn không muốn người bạn đời của mình trong tương lai dính dáng tới tình dục với ai khác.
            2. Hãy đọc thuộc lòng và trưng dẫn KINH THÁNH.
                  a. Nếu bạn tranh đấu với tư dục, hãy học thuộc lòng một số phân đoạn Kinh Thánh về tội tà dâm rồi trưng dẫn chúng ra khi bị cám dỗ (Gióp 31:9-12; Châm ngôn 6:24-35; I Côrinhtô 9:27; Êphêsô 4:22; II Timôthê 2:22; Giacơ 1:14-16).
                  b. Hãy thay thế các tư tưởng dục vọng với những người mạnh khoẻ. Hãy chiếm hữu lý trí của bạn với các tư tưởng thanh sạch và dễ thương, đừng nghĩ tới những tư tưởng gợi dục khủng khiếp kia mà chi. Thật là khó động tình ham muốn và trưng dẫn Kinh Thánh cùng một lúc được.
            3. HÃY CẦU NGUYỆN cho người nào đang cám dỗ bạn.
                  a. Một trong số các lý do chúng ta động tình ham muốn: ấy là chúng ta nhìn thấy người khác là đối tượng cho ham muốn tư dục. Chúng ta đừng nhìn người ấy (nam hay nữ). Chúng ta nhìn thấy cơ thể đáng ham muốn và nghe những lời đàm tiếu.
                  b. Lần tới quý vị cám dỗ động tình ham muốn ai đó, hãy tự hỏi mình một số câu hỏi: “Người nầy có nhận biết Đức Chúa Jêsus Christ là Cứu Chúa không?. Làm sao tôi giúp được cho người (nam hay nữ) tấn tới về mặt thuộc linh?”
                  c. Thật là khó động tình ham muốn ai đó một khi quý vị quan tâm tới linh hồn của họ. Hãy ưu tiên một cho vấn đề thuộc linh, chớ không phải thể xác.
            4. Trở thành TRÁCH NHIỆM lý giải cho một người bạn Cơ đốc. Hãy tìm một tín đồ trưởng thành mà bạn biết rõ và tin cậy. Hãy dành cho ông hay bà ấy được phép hỏi han bạn một số câu hỏi khó về sự cám dỗ bất kỳ lúc nào.
            5. Hãy đếm lại CÁI GIÁ.
Hãy nhớ, tà dâm là một nổ lực tránh thoát thực tại. Farrar viết: “Miếng mồi của sự tà dâm: ấy là người đờn bà khác sẽ thực sự làm thoả mãn các nhu cần của bạn. Sự dối trá của tà dâm: ấy là không có một người đờn bà nào khác trên đất, vô luận duyên dáng, xinh đẹp như thế nào có khả năng làm thoả mãn trọn vẹn mọi nhu cần của người nào khác. Đấy là lý do tại sao tà dâm là trò lừa không phân tích được. Nó hứa hẹn mọi điều mà nó không thể chỉ ra được”.
                  a. Tà dâm sẽ làm gì cho vợ con, Hội thánh, bạn bè của bạn và những người chưa tin Chúa, đây là những con người đối với họ bạn là chứng nhân đấy.
                  b. Chẳng có một lượng khoái lạc về tình dục trong thế gian nầy đáng bỏ công ra tìm kiếm để rồi phải trả giá đắt.

***



Thứ Năm, 1 tháng 8, 2013

Bài 70: Mathiơ 19:1-12: "Chúa Jêsus Về Vấn Đề Ly Dị"


MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Chúa Jêsus về vấn đề ly dị
Mathiơ 19:1-12
1. Ly dị trong xã hội chúng ta không còn là một nan đề chính nữa. Văn phòng thống kê dân số của nước Mỹ đưa ra báo cáo nầy.
· Năm 1920 cứ 7 cuộc hôn nhân có 1 cuộc ly dị.
· Năm 1940 cứ 6 cuộc hôn nhân có 1 cuộc ly dị.
· Năm 1960 cứ 4 cuộc hôn nhân có 1 cuộc ly dị.
· Năm 1972 cứ 3 cuộc hôn nhân có 1 cuộc ly dị.
· Năm 1985 cứ 2 cuộc hôn nhân có 1 cuộc ly dị.
Bằng chứng thống kê mới nhất cho thấy rằng hơn 50% các cuộc hôn nhân hiện nay đang kết thúc trong ly dị. Tất nhiên những người đã ly dị và đã tái hôn hơn 65% trong số họ sẽ lại ly dị nữa. Mỗi năm hơn 1 triệu cuộc ly dị đang nộp hồ sơ ở nước Mỹ. Như vậy có ít nhất 2 triệu người lớn và vài triệu trẻ em bị ảnh hưởng trực tiếp. Thậm chí có những cặp vợ chồng Cơ đốc đang ly dị ở một cấp độ đáng phải báo động.
2. Khi một cuộc hôn nhân kết thúc trong ly dị, mọi người đều bị tổn thương. Có người từng nói rất khôn khéo: "Có hai việc làm không nên vội vã, là ướp xác chết và ly dị". Không có ai ở đây từng bị đau khổ dù là trong cuộc hôn nhân của mình, của cha mẹ, của anh chị em ruột, của con cái hay ai đó đang sống gần quí vị. Thậm chí giữa vòng các đôi vợ chồng Cơ đốc.
3. Ly dị và tái hôn thường nằm ở một trong bốn điều kiện cơ bản:
· Thứ nhứt, có người nói ly dị và tái hôn không được phép dưới bất kỳ hoàn cảnh nào.
· Thứ hai, nhiều người khác cho rằng ly dị được phép dưới bất kỳ hoàn cảnh nào, còn tái hôn thì không được phép.
· Thứ ba, nhiều người cho rằng ly dị và tái hôn phải được phép trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
· Sau cùng, có người nói ly dị và tái hôn cả hai đều được phép có giới hạn dưới từng hoàn cảnh.
4. Có lẽ chúng ta cả thảy đều có một quan điểm, nhưng rồi các quan điểm của chúng ta đều không thực sự quan trọng. Thắc mắc chúng ta cần phải đưa ra là “Chúa Jêsus nói gì về ly dị và tái hôn?”
5. Khi chúng ta tiếp tục phần nghiên cứu về sách Mathiơ, chương 19 cung ứng cho chúng ta quan điểm của Đức Chúa Trời về ly dị và tái hôn trực tiếp từ môi miệng của Chúa Jêsus.
I. Hôn nhân là chương trình của Đức Chúa Trời (các câu 1-6).
A. Theo Kinh Thánh (các câu 1-2).
1. Chúa Jêsus đang thi hành chức vụ trong xứ Galilê và Miền Bắc xứ Palestine trong gần hai năm trời. Trong mấy tháng sau cùng, phần lớn sự dạy dỗ của Ngài đều được dành tiêng cho các môn đồ. Câu 1 chép: "Đức Chúa Jêsus phán lời ấy xong rồi".
2. Tại điểm nầy "Ngài từ xứ Ga-li-lê mà đi đến bờ cõi xứ Giu-đê, bên kia sông Giô-đanh". Khu vực nầy ai cũng biết là xứ Bêrê. Chúa Jêsus đã nói cho các môn đồ biết rằng: "mình phải đi đến thành Jerusalem, phải chịu tại đó nhiều  sự khốn khổ bởi những người trưởng lão, thầy tế lễ cả, cùng thầy thông giáo, và phải bị giết, đến ngày thứ ba phải sống lại" (Mathiơ 16:21). Giờ đây Ngài đang bước đi trên con đường đó.
3. Trong suốt khoảng thời gian nầy "có nhiều đoàn dân đông theo Ngài và Ngài chữa lành các kẻ bịnh ở đó". Hãy tưởng tượng hàng trăm hàng ngàn người đang kéo đến để rờ đụng vào quyền phép và lòng thương xót của Ngài.
B. Thắc mắc của người Pharisi (câu 3).
1. Người Pharisi thù ghét Chúa Jêsus. 12:14 chép: "Những người Pha-ri-si đi ra ngoài rồi, bàn với nhau, lập mưu đặng giết Ngài". Không nghi ngờ chi nữa, trong khi Ngài phục vụ cho đám dân đông, họ "đến gần để thử Ngài". Họ muốn làm cho Ngài bị mất mặt trước dân chúng để dễ dàng giết Ngài hơn.
2. Họ đã có một thắc mắc được cân nhắc rất kỹ lưỡng: "Không cứ vì cớ gì người ta có phép để vợ mình chăng?" Họ muốn đặt Ngài vào chỗ nghịch lại với luật pháp của Môise.
3. Thế thì ly dị giờ đây là một đề tài nóng bỏng. Trong một xã hội mà phụ nữ bị đối đãi như một phần tài sản, người Pharisi tin vào một cuộc ly dị dễ dàng hay "không vì cớ gì". Rabi Hillel, một người đồng thời với Chúa Jêsus dạy rằng người nam có quyền ly dị vợ mình nếu nàng đã làm một điều chi đó không đẹp lòng chàng. Rabi Akiba khẳng định quyền ấy được áp dụng nếu người chồng tìm được một người nữ xinh đẹp hơn.
4. Ở chỗ khác, Rabi Shammai đã lãnh đạo một nhóm khác, nhỏ hơn nhưng có nhiều vị giáo sư trong đó, họ nói rằng ly dị là không được phép. Như chúng ta đã tiếp thu, cả hai ý kiến nầy đều không tùy theo Kinh Thánh.
5. Người Pharisi vốn biết rõ Chúa Jêsus đã cảm nhận thể nào về ly dị rồi. Ngài đã phán trong Mathiơ 5:32: "Song ta phán cùng các ngươi: Nếu người nào để vợ mà không phải vì cớ ngoại tình, thì người ấy làm cho vợ mình ra người tà dâm; lại nếu người nào cưới đàn bà bị để, thì cũng phạm tội tà dâm".
6. Họ muốn cho người ta thấy Chúa Jêsus có tâm ý hẹp hòi, cố chấp và bị mất mặt trước đoàn dân đông.
7. Một yếu tố khác, ấy là Giăng Báptít đã bị bỏ tù vì đã xét đoán Vua chư hầu Hêrốt và việc ông tái hôn tại cùng khu vực xứ Bêrê ấy.
C. Sự dạy của Chúa (câu 3).
1. Chúa Jêsus không đưa ra một câu trả lời đúng hoặc không trả lời. Thay vì thế Ngài xây qua phía Kinh Thánh. Đúng là một tấm gương! Tôi cũng được phước khi thấy Chúa Jêsus rao giảng có quyền phép từ 11 chương đầu tiên của sách Sáng thế ký!
2. Ngài hỏi với tính cách châm biếm: "Các ngươi há chưa đọc…?" Các ngươi há chưa đọc sách Sáng thế ký chăng? Các ngươi há chưa nghiên cứu Lời của Đức Chúa Trời ư? Khi ấy Ngài trưng dẫn Sáng thế ký1.27 & 2.24, những câu nói cốt lõi nói về ý định của Đức Chúa Trời cho vấn đề hôn nhân. Trong các câu 4-6, chúng ta hãy để ý bốn lý do tại sao ly dị không nằm trong chương trình của Đức Chúa Trời.
· Thứ nhứt, Đức Chúa Trời phối hiệp những người nam người nữ đặc biệt với nhau trong hôn nhân. Chúa Jêsus phán rằng Đức Chúa Trời "hồi ban đầu" đã dựng nên họ thành "người nam người nữ". Một cách dịch sát nghĩa như sau "một người nam một người nữ". Đức Chúa Trời không dựng nên một nhóm người nam và một nhóm người nữ để cho chúng ta chọn lựa. Ngài không dự định làm cho chúng ta ra dư thừa và chọn lựa. Ngài dựng nên chúng ta cho mỗi cá nhân với nhau. Rõ ràng là chỉ có một người nam và một người nữ vào lúc ban đầu, vì vậy không có việc chọn tìm kiếm một người khác. Tôi tin Đức Chúa Trời đã dựng nên vợ tôi để cho tôi. Tôi tin Ngài đã dựng nên những người đờn ông cho các cô con gái của tôi.
· Thứ hai, Đức Chúa Trời tác thành những cặp vợ chồng trong hôn nhân. Chúa Jêsus phán: "Vì cớ đó người nam sẽ lìa cha mẹ, mà dính díu với vợ mình". Từ ngữ Hy bá lai ở đàng sau "tác thành" được sử dụng để giới thiệu các món đồ dính chặt lại với nhau. Từ ngữ nầy mô tả sự ước ao của Rutơ muốn ở lại với Naômi và Israel đang nắm chặt lấy các lời giáo huấn của Đức Giêhôva. Là những cặp hôn phối, chúng ta cần phải lìa khỏi quyền lực của cha mẹ mình rồi trở nên một tâm trí, một linh hồn và một tâm linh.
· Thứ ba, Đức Chúa Trời ấn định hôn nhân cho sự hiệp một. Chúa Jêsus phán: "Hai người sẽ trở nên một thịt". Những người làm chồng, làm vợ phải hiệp với nhau theo phần xác thể (I Côrinhtô 7:2-5). Đức Chúa Trời đã ấn định những người làm chồng, làm vợ phải trở nên một thịt với nhau vì chúng ta vốn là bất toàn. Con cái là phần biểu lộ trọn vẹn sự hiệp một của chúng ta.
· Thứ tư, Đức Chúa Trời đã dựng nên từng cuộc hôn nhân. Chúa Jêsus phán: "Vậy, loài người không nên phân rẽ những kẻ mà Đức Chúa Trời đã phối hiệp!" Theo một ý nghĩa, mỗi cuộc hôn nhân, dù là Cơ đốc nhân hay không phải Cơ đốc nhân đều là một ơn phước đến từ Đức Chúa Trời. Châm ngôn 18:22 chép: "Ai tìm được một người vợ, tức tìm được một điều phước. Và hưởng được ân điển của Đức Giê-hô-va". Châm ngôn 19:14 chép: "Nhà cửa và tài sản là cơ nghiệp của tổ phụ để lại; Còn một người vợ khôn ngoan do nơi Đức Giê-hô-va mà đến". Một cuộc hôn nhân là một sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Ly dị là một sự huỷ diệt của con người.
II. Ly dị là sự nhượng bộ của Đức Chúa Trời (các câu 7-9).
A. Sự bài bác của người Pharisi (câu 7).
1. Giống như hết thảy các tín đồ giả mạo, người Pharisi không ưa thích việc tuân giữ các điều răn của Đức Chúa Trời. Họ đang tìm kiếm những kẻ hở của luật pháp để bào chữa cho tội lỗi của họ.
2. Nếu mọi điều Chúa Jêsus đã phán là thực, họ muốn biết lý do tại sao trong luật pháp Môise đã đưa ra một "tờ để" đặng "để vợ đi". Thắc mắc nầy đặt cơ sở trên sự lý giải mà họ đã vặn cong Phục truyền luật lệ ký 24:1-4. Khi quí vị đọc tiểu đoạn Kinh Thánh nầy quí vị sẽ không hề thấy một "mạng lịnh" nào cho phép ly dị mà là một sự nhượng bộ vì "một sự ô uế" hay tội lỗi. Tà dâm bị trừng phạt bởi sự chết. Tìng trạng "ô uế" có ý nói tới sự dâm dục.
B. Đáp ứng của Chúa (các câu 8-9).
1. Chúa Jêsus làm sáng tỏ phần bàn cãi bằng cách nói "Môise…cho phép để vợ". Ông không ra lịnh, mà "cho phép" bằng cách nhượng bộ "vì lòng các ngươi cứng cỏi".
2. "Lòng các ngươi cứng cỏi" có ý nói tới một người bạn đời đã vi phạm vào một sự phi luân về tình dục lâu dài mà chẳng ăn năn. Câu nói đó cũng có ý nói tới tấm lòng không biết tha thứ của một người bạn đời vô tội kia.
3. Chúa Jêsus phán: "Lúc ban đầu không có như vậy đâu". Hôn nhân là chương trình của Đức Chúa Trời, còn ly dị chỉ là sự nhượng bộ của Ngài mà thôi. Hầu hết những cuộc ly dị đều giống với việc cắt đứt bàn tay của quí vị khi quí vị bị dơ ngón tay của mình vậy!
            Cách đây nhiều năm, Deb và tôi mua một ngôi nhà ở khu vực Dallas có hồ bơi trong sân sau. Ngôi nhà bị bỏ trống không suốt mùa đông và hồ bơi bị thứ chất nhờn màu xanh lá cây bao phủ. Chúng tôi đã cho rút hết chất lỏng nhờn ấy rồi cọ rửa lại hồ bơi cho sạch sẽ. Chúng tôi đã cho đầy nước sạch vào, thêm hoá chất vào. Chúng tôi chịu khó chờ đợi để tắm trong hồ bơi đó. Tuy nhiên, trong một vài ngày nước sạch của chúng tôi chứa ở đó lại ngả màu xanh lá cây! Chúng tôi không thêm vào đủ hoặc pha trộn đúng mức các thứ hoá chất để giết đi loài tảo! Không một đôi vợ chồng nào dự tính để cho cuộc hôn nhân của họ phải đổi ra tồi tệ cả. Câu trả lời không phải là chịu thua thiệt trong cuộc sống hôn nhân, mà là thêm vào các thứ hoá chất đầy sự dạy và quyền lãnh đạo của Kinh Thánh!
4. Trong câu 9, Chúa Jêsus đưa ra một sự xưng công bình theo Kinh Thánh về vấn đề ly dị: đó là "ngoại tình". Từ ngữ Hy lạp là pornia từ đó chúng ta mới có từ “khiêu dâm” (pornography). Rõ ràng ý nghĩa ở đây là sinh hoạt tình dục trái lẽ ngoài cuộc hôn nhân.
5. Câu 9 chép ly dị với bất cứ lý do nào khác gây ra thêm nhiều sự tà dâm nữa. Điều nầy cũng bảo hộ cho phía vô tội.
III. Độc thân là sự ban cho của Đức Chúa Trời (các câu 10-12).
A. Mác 10:10 đề xuất rằng người Pharisi đã bỏ đi ngay lúc nầy và Chúa Jêsus bước vào một ngôi nhà cùng với các môn đồ để sinh hoạt riêng. Chắc chắn là họ đã nhìn biết rằng theo ý chỉ của Đức Chúa Trời, hôn nhân chỉ có thể kết thúc bằng sự chết hoặc bằng ly dị vì cớ sự tà dâm và có khi tà dâm không buộc phải ly dị.
B. Vì cớ nhận định về ly dị rất phổ thông trong lý trí của các môn đồ, họ kết thúc: "nếu phận người nam phải xử với vợ mình như vậy thì thà không cưới vợ là hơn".
C. Giống như nhiều người ngày nay, những người Do thái trong thế kỷ đầu tiên đã nhìn thấy hôn nhân là một cách để trả thù lao cho tình dục luyến ái, để sinh sản con cái và chia sẻ các trách nhiệm lẫn nhau. Một vài người nhìn xem hôn nhân là sự hiệp một.
D. Chiếu theo phần kết luận của các môn đồ, Chúa Jêsus phán rằng: "Chẳng phải mọi người đều có thể lãnh được lời nầy, chỉ người sẵn có ban cho như vậy mà thôi". Tất nhiên Ngài đang đề cập tới tình trạng sống độc thân. Dường như Phaolô đề nghị trong I Côrinhtô 7:7 rằng độc thân là một ân tứ.
E. Ngài phán rằng có người "hoạn [những người bị thiến] từ trong lòng mẹ". Họ ra đời với những dị tật bẩm sinh không có khả năng về tình dục.
F. Những người khác thì "hoạn vì tay người ta". Thường thì tôi tớ và lính canh hậu cung của các vì vua đều bị thiến để cất bỏ sự ham mến về phụ nữ cũng như tính nóng của họ.
G. Những người khác nữa "tự làm nên hoạn vì cớ nước thiên đàng". Kinh Thánh không tha thứ cho người tự cắt bỏ thịt mình. Thay vì thế Chúa Jêsus có ý nói rằng có người là "hoạn về mặt thuộc linh". Họ tình nguyện sống một đời sống độc thân để hầu việc Đức Chúa Trời. Phaolô đã có ân tứ nầy. Chúa Jêsus phán: "Người nào lãnh nổi lời ấy thì hãy lãnh lấy".
IV. Những thắc mắc và giải đáp về ly dị và tái hôn.
A. Thắc mắc #1. Nếu phi luân về tình dục là nền tảng theo Kinh Thánh để ly dị, Kinh Thánh nói gì về tái hôn? Chúng ta hãy lưu ý ba lý do theo Kinh Thánh cho tái hôn.
1. Thứ nhứt là phi luân về tình dục của một người bạn đời không ăn năn (câu 9). (Pornia) Ngoại tình có ý nói tới một cung cách sống, không phải là sự cố xảy ra có một lần. Một Cơ đốc nhân phải bằng lòng tha thứ cho người bạn đời thậm chí về tội tà dâm nếu người thành thực ăn năn (xem 18:21-23). Chúa Jêsus đã tha thứ cho chúng ta về mọi sự. Sách Ôsê trong Cựu ước là hình ảnh của Đức Chúa Trời về ân sũng và sự tha thứ của Ngài đối với tội tà dâm của dân Israel. Mặt khác, Đức Chúa Trời không muốn trừng phạt người bạn đời vô tội do có một đời sống khắc nghiệt và cô đơn.
2. Thứ hai là sự ruồng bỏ một người bạn đời tin Chúa bởi một người không tin Chúa. Chúng ta hãy đọc I Côrinhtô 7:12-15. Người tín đồ trung tín không ở "dưới vòng nô lệ" trong các trường hợp như thế. Một lần nữa, Đức Chúa Trời không muốn hình phạt người bạn đời có lòng vâng phục.
3. Thứ ba là ly dị đã diễn ra trước khi được cứu. II Côrinhtô 5:17 chép: "Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới". Đức Chúa Trời cất bỏ MỌI sự cũ! Ngài không còn nhớ đến tội lỗi nữa!
B. Thắc mắc #2. Một cuộc ly dị không theo Kinh Thánh có thể được tha thứ không? Được, đây là hai lý do tại sao.
1. Thứ nhứt, ly dị không phải là tội không thể tha thứ. Vô tín là tội lỗi duy nhứt Đức Chúa Trời không thể và sẽ không tha thứ. Người ta không "sống trong tình trạng tà dâm". Họ đã phạm tội tà dâm. Tôi đã nhìn thấy các cấp lãnh đạo Hội Thánh ca ngợi ân điển của Đức Chúa Trời khi họ nhớ lại họ từng là thành viên của các băng du đảng, nghiện ma tuý, giết người sau khi họ được cứu. Tôi đã nhìn thấy cũng chính các cấp lãnh đạo đó từ chối không sử dụng những người đã ly dị. Tôi cho rằng bản thân họ đều phạm tội “tà dâm ở trong lòng” Chúa Jêsus phán vậy ở Mathiơ 5:28.
2. Thứ hai, ân sũng của Đức Chúa Trời tha thứ và thanh tẩy chúng ta khỏi MỌI tội của chúng ta. Rôma 8:1 chép: "Cho nên hiện nay chẳng còn có sự đoán phạt nào cho những kẻ ở trong Đức Chúa Jêsus Christ". I Giăng 1.9 chép: "Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác".
C. Thắc mắc #3. Có phải những kẻ đã ly dị và tái hôn dưới hoàn cảnh không theo Kinh Thánh đang sống trong tình trạng tà dâm chăng? Không, họ đã phạm tội tà dâm. Vua David đã phạm tội tà dâm với Bátsêba nhưng Đức Chúa Trời đã tha thứ cho ông. Dù sự hội hiệp của họ mới có Solomon là người đã nối ngôi David làm Vua là đã có mặt trong gia phổ vương giả của Đấng Christ. David đã được tha thứ, nhưng đã sống với mọi hậu quả của tội lỗi mình (Galati 6.7).
D. Thắc mắc #4. Sao chúng ta phải ly dị chứ – Hãy minh chứng cuộc hôn nhân của quí vị đi?
1. Hãy cất bỏ chữ "ly dị" ra khỏi quyển tự điển hôn nhân của quí vị đi.
2. Hãy giải quyết cơn giận (Êphêsô 4.26).
3. Hãy gieo ra sự thân mật (chạm đến, ôm hôn, gây dựng).
4. Hãy thực hành sự vô kỷ chớ đừng làm ra sự ích kỷ.
5. Hãy thể hiện ra cái tôi có giá trị, chớ đừng lộ ra cái tôi vô giá trị.
6. Hãy học tha thứ.
***