Thứ Hai, 8 tháng 4, 2013

Bài 58: Mathiơ 15:21-28: "Đức Tin Chân Chính"




MATHIƠ – VUA CÁC VUA

Đức tin chân chính

Mathiơ 15:21-28
1. Có nhiều định nghĩa về đức tin. Hêbơrơ 11.1 cung ứng cho chúng ta một định nghĩa theo Kinh Thánh: "Vả, đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều mình đương trông mong, là bằng cớ của những điều mình chẳng xem thấy". Các học giả Kinh Thánh thuộc mọi thời đại đã phấn đấu để định nghĩa đức tin theo thần học. Tuy nhiên, để bắt đầu, chúng ta hãy suy nghĩ một vài định nghĩa về đức tin:
· Tin tưởng cậu con trai của mình ở tuổi thiếu niên với chiếc xe hơi vào ngày hẹn hò đầu tiên của nó.
· Tin tưởng đứa con gái tuổi thiếu niên của mình vào ngày hẹn đầu tiên của nó với con trai của người khác.
· Tin vào người thợ máy đã móc cái thắng của xe sau khi sửa chữa chúng.
· Tin tưởng đứa con nói: "Mẹ nói sẽ không sao nếu con…"
· Tin vào đơn thuốc của bác sĩ mà bạn không thể đọc được và tin một dược sĩ mà bạn không quen biết khi ông ta pha trộn các thứ hoá chất mà bạn không thể đọc tên chúng.
2. Có người từng phát biểu: "Những định nghĩa thật khó đã thông, song các tấm gương thì thật phong phú". Tối nay tôi không muốn nhắm vào một định nghĩa về đức tin, mà nhắm vào một tấm gương cụ thể về đức tin chân chính. Theo cảm hứng đó, có nhiều tấm gương rất hay nói về đức tin chân chính khắp cả Kinh Thánh.
A. Ápraham đã lìa bỏ quê hương mình ở tuổi 75 để đi theo Đức Giêhôva đến Đất Hứa. Mặc dù tuổi ông đã lớn, ông đã tin Đức Chúa Trời sẽ ban cho ông một đứa con trai.
B. Môise đã dẫn dắt con cái Israel mặc dù sự thật cho thấy rằng họ đã hành động giống như con trẻ, luôn luôn than phiền và lằm bằm.
C. Ghiđêôn đã tin Đức Chúa Trời khi đoàn quân đông của ông bị rút lại còn võn vẹn có 300 người.
D. Đaniên đã tin Đức Chúa Trời khi ông bị bỏ xuống hang sư tử.
E. Chúa Jêsus đã ban ra hai thí dụ quan trọng nói tới đức tin bền đỗ, chân chính: Người đờn bà goá bền đỗ  (Luca 18.1-8)  và Người bạn bền đỗ (Luca 11.5-8).
F. Giuđe khuyên chúng ta phải "vì đạo mà tranh chiến, là đạo đã truyền cho các thánh một lần đủ rồi" (Giuđe 3).
3. Phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta là một thí dụ kỳ diệu nói về một người có đức tin rất bền đỗ. Từ đó chúng ta có thể học biết ba đặc điểm của đức tin chân chính: đức tin ấy tỏ ra nhu cầu, nhìn thấy ở bên kia nan đề và tin cậy nơi bổn tánh của Đức Chúa Trời.

I. Đức tin chân chính tỏ ra nhu cầu (các câu  21-22).

A. Chúa Jêsus đem các môn đồ riêng ra (câu 21).
1. Khi chúng ta nhìn ngược lại hai chương sau cùng, chúng ta thấy Chúa Jêsus đang chịu đựng một áp lực rất lớn, ít nhất là từ bốn phía.
a. Ngài đang chịu áp lực từ đoàn dân đông. Họ đã công nhận Ngài là Đấng Mêsi và mong muốn lập Ngài làm Vua (Giăng 6.15).
b. Ngài đang chịu áp lực từ Hêrốt Antiba. Vua chư hầu xứ Galilê vốn tin rằng Chúa Jêsus là sự báo ứng của ông ta, là Giăng Báptít "đã sống lại từ kẻ chết" (14.2). Tánh ganh tỵ cực mạnh của Hêrốt có tính cách huyền thoại.
c. Ngài đang chịu áp lực từ các cấp lãnh đạo người Do thái. Các thầy thông giáo và người dòng Pharisi đã "bàn với nhau, lập mưu giết Ngài" (12:14). Sau lần đối mặt mới đây, các môn đồ đã hỏi Chúa: "Thầy có hay rằng người Pha-ri-si nghe lời thầy nói mà phiền giận chăng?" (15:12).
d. Ngài đang chịu áp lực từ chính thân thể vật lý của Ngài. Chúa Jêsus rất mệt mỏi. Ngài cần một nơi để nghỉ ngơi và chuẩn bị cho các môn đồ thân tín nhất của Ngài cho mọi điều sẽ xảy đến. Hết thảy chúng ta đều cần phải lui lại nghỉ ngơi giữa hai lần làm việc.
2. Câu 21 nói Ngài "đi từ đó", nghĩa là Ngài rời khỏi Galilê. Ngài đi từ phía tây bắc đến "bờ cõi thành Tyrơ và Siđôn". Ngài rời khỏi đám đông và di hành qua các khu vực của Hêrốt và các nhà lãnh đạo Do thái.
3. Thật là thú vị, nhiều thế kỷ trước, đại tiên tri Êli đã trốn vào chính khu vực nầy và đã tìm được sự thoải mái trong nhà của bà goá "Sarépta, thuộc Siđôn" (I Các Vua 17:9).
4. Chúa Jêsus không rời khỏi Israel để thi hành chức vụ, mà là để nghỉ ngơi. Mác 7:24 chép Ngài "vào một cái nhà" (có lẽ đã thuê ngôi nhà ấy) "và không muốn cho ai biết mình". Giống như nhiều người nổi tiếng, Ngài đã đi không muốn cho ai biết.
5. Dầu thơm không thể che giấu mùi vị của nó. Mặt trời không thể che giấu ánh sáng của nó và Con Đức Chúa Trời không thể đi mà người ta chẳng nhận biết. Mác nói: "Song Ngài không thể ẩn được". Đã có một sự rò rỉ. Có ai đó đã thấy Ngài.
B. Chúa Jêsus bị một người mẹ theo bén gót (câu 22).
1. “Xảy có một người đờn bà xứ Canaan, từ xứ ấy đến” cầu xin Chúa Jêsus giúp đỡ. Mác 7:26 chép bà ta là "người Gờréc, [sát nghĩa, là dân Ngoại], dân Sirôphênixi". Bà ta chẳng phải là người Do thái. Bà ta chẳng có một lời hứa nào của tuyển dân Đức Chúa Trời hết, nhưng dẫu thế nào thì bà ta vẫn cứ đến với Chúa Jêsus.
2. Cái điều đã khiến cho đức tin của người đờn bà nầy dường như lớn lao hơn đức tin của phần nhiều người Do thái, ấy là niềm tin ấy đã dựa vào một chút ánh sáng đó. Bà ta đã lớn lên trong một xã hội theo tà giáo. Bà ta xuất thân từ hạng người mà dân Israel được truyền cho phải "tiêu diệt hoàn toàn" (Phục truyền luật lệ ký 7.2). Bà ta không có Lời của Đức Chúa Trời để noi theo.
3. Dường như là bà ta đã nhận ra rằng các thứ hình tượng của dân tộc bà ta đều vô dụng chẳng giúp chi được  cho đứa con gái "mắc quỉ ám" của mình. Không nghi ngờ chi nữa, bà ta đã nghe nói về khả năng làm phép lạ của Chúa Jêsus qua nhiều người khác. 
4. Bà ta "kêu lên". Phân tích văn phạm cho thấy rằng bà ta không nói ra câu nầy mà cứ kêu lên câu nói ấy. Hãy chú ý phần đáp ứng của các môn đồ ở câu 23: "Xin thầy truyền cho đờn bà ấy về, vì người kêu van ở đằng sau chúng ta".
5. Bà ta đã kêu cầu nơi Chúa Jêsus xin "thương xót tôi cùng". Mặc dù bà ta biết rõ mình chẳng xứng đáng chi với sự vùa giúp của Chúa Jêsus, bà ta đã tin nơi "sự thương xót" của Ngài để cứu vớt đứa con gái của mình.
6. Bà ta đã gọi Ngài bằng tước hiệu Đấng Mêsi "Lạy Chúa, con cháu vua David". Không một người Canaan bình thường nào biết được tước hiệu đó. Có ai đó đã nói cho bà ta biết về Chúa Jêsus và bà ta đã tin theo. Bà ta có đức tin nơi Ngài và đã tỏ ra nhu cầu của mình.
C. Có phải chúng ta nhơn đức tin mà bày tỏ ra nhu cầu của mình cho Chúa biết không?
1. Giacơ 4:2-3 chép: "… anh em chẳng được chi, vì không cầu xin. Anh em cầu xin mà không nhận lãnh được, vì cầu xin trái lẽ, để dùng trong tư dục mình".
2. Nhiều lần khi chúng ta đối diện với nan đề và khó khăn, việc cuối cùng chúng ta làm là cầu nguyện. Chúng ta thử mọi sự và trao đổi với mọi người để định liệu mọi việc theo ý riêng của mình. Đấy là sự nương cậy vào bản ngã, chớ không nương cậy vào Đức Chúa Trời.
3. Bước đi bởi đức tin có nghĩa là chúng ta bày tỏ ra mọi nhu cầu của mình cho Chúa biết rồi bước đi với lòng tin chắc Ngài sẽ làm thoả mãn các nhu cầu đó (Philíp 2:19; Hêbơrơ 11:6).
4. Đức tin có nghĩa là tiếp tục kêu cầu nơi Chúa giống như người đờn bà nầy. Đôi khi, Đức Chúa Trời kéo dài việc đáp trả những lời cầu nguyện của chúng ta vì thời điểm duy nhứt chúng ta thực sự cầu nguyện là khi chúng ta gặp phải các nan đề.

II. Đức tin chân chính nhìn thấy bên kia các nan đề (các câu 23-24).

A. Người đờn bà tin mặc dù có ba nan đề lớn.
1. Thứ nhứt, bà ta không phải là người Do thái. Bà ta là "người đờn bà xứ Canaan". Bà ta là người dân Ngoại. Bà ta nói tiếng của người Ngoại, sống theo văn hoá của dân Ngoại, và thực hành theo tôn giáo đa thần của người Ngoại. Trong con mắt của hầu hết người Do thái, bà ta chẳng khác gì hơn một con chó. Dù vậy, bà ta đã tin Chúa Jêsus sẽ giúp đỡ cho bà ta.
2. Thứ hai, Chúa Jêsus đã bất chấp bà ta. Câu 23 chép: "Ngài chẳng đáp một lời". Ngài đang hành động phù hợp với Do thái giáo truyền khẩu. Đối với rabi Do thái, người đờn bà nầy không sao bằng một con người cho được. Khi Ngài phán, đáp ứng của Ngài dường như riêng biệt và xa xôi: "Ta chịu sai đến đây, chỉ vì các con chiên lạc mất của nhà Isarel đó thôi". Bà ta vẫn quấy rầy Ngài.
3. Thứ ba, các môn đồ đã tìm cách làm cho bà ta nản lòng. Họ đã "cố nài xin" Chúa Jêsus "truyền cho đờn bà ấy về, vì người kêu van ở đàng sau chúng ta". Chúng ta thường muốn nhơn đức tin tin theo Đức Chúa Trời, nhiều người khác tìm cách tạo ra mưa trên cuộc diễu hành của chúng ta.
B. Có phải chúng ta mất đức tin trong ánh sáng của các nan đề hay có phải đức tin chúng ta tấn tới bất chấp các nan đề của chúng ta không?
1. Cốt lõi của đức tin là biết nhìn qua bên kia thật rõ ràng. Một lần nữa, Hêbơrơ 11:1 chép đức tin là "bằng cớ của những điều chẳng xem thấy". Có người mô tả đức tin như thế nầy: "Đức tin là dám đưa linh hồn đi xa hơn nó có thể trông thấy".
2. Quí bạn tôi ơi, trong đời nầy chúng ta sẽ luôn luôn có những nan đề. Sẽ luôn luôn có nhiều ngăn trở. Chúng ta sẽ luôn luôn gánh chịu nhiều giông bão. Điều nầy là thực cho đời sống cá nhân chúng ta và cũng cho đời sống tập thể của chúng ta trong vai trò một Hội thánh nữa.
3. Đức Chúa Trời sử dụng các nan đề của chúng ta  để củng cố cho đức tin chúng ta được vững mạnh. Chúng ta biết chúng ta đang ở đúng lằn chạy khi chúng ta nói: "Nếu Đức Chúa Trời không lộ diện, chúng ta sẽ thất bại".
4. Chúng ta thôi không nhìn vào các nan đề nữa và hãy đặt chúng trên giải pháp: ấy là Chúa Jêsus. Mọi nan đề của chúng ta không phải là tiền bạc hay con người, mà là không hướng mắt nhìn xem Chúa Jêsus.
Geoffrey Gorsuch viết về việc lái một chiếc máy bay nhỏ ở giữa trận bão lớn vào năm 1989: "Tôi có thể nhìn thấy 20 feet ở đằng trước máy bay. Tôi buộc phải nương cậy duy nhứt vào các dụng cụ phi hành chỉ phương hướng của mình. Các dụng cụ nầy đã dẫn tôi qua cơn bão đến với đường băng. Có những lúc khi sự nhầm lẫn trong các đám mây sẽ gây ra tai vạ, có nhiều lúc khi mọi ý thức của tôi dường như chỉ ra rằng các dụng cụ đều không đúng, tạo ra hoảng loạn và viên phi công lầm lẫn không thể tránh được. Nhưng tôi đã được huấn luyện để tin theo các dụng cụ đó. Và tôi đã... khi chúng tôi rẽ khỏi các đám mây chừng 100 feet cách đường băng và trong một tư thế hạ cánh thật ngon lành, mọi sự còn lại phải làm là giảm tốc độ máy rồi đưa nó vào chỗ đậu trên đường băng. Khi mấy cái bánh xe đáp khẫn cấp tiếp cận với những hàng đèn chiếu sáng, tôi biết chúng không còn cần thiết nữa. Tôi đã tin vào các dụng cụ, tôi là một phi công và đó là ngày mà tôi biết chắc đã được an toàn rồi". Đức Chúa Trời ban hiến cho mỗi người tin Chúa với công cụ đức tin để nhìn xem Ngài qua mọi giông bão của cuộc sống.

III. Đức tin chân chính tin vào bổn tánh của Đức Chúa Trời (các câu  25-28).

A. Người đờn bà đã tin vào bổn tánh thật của Chúa Jêsus (các câu 26-27).
1. Mặc dù Chúa Jêsus dường như từ chối lời nài xin của bà ta, người đờn bà vẫn không thối lui. Bà ta không cho phép bản thân tin rằng Chúa Jêsus sẽ hất hủi mình. Thực vậy, bà ta "đã lạy Ngài" mà thưa rằng: "Lạy Chúa, xin Chúa giúp tôi cùng!"
2. Thái độ cay độc của Chúa Jêsus dường như thêm phần tệ hại nữa. Khi sử dụng phép loại suy nói dân Ngoại là “chó”, Ngài đã phán với âm điệu phân biệt chủng tộc: "Không nên lấy bánh của con cái mà quăng cho chó con ăn". Từ ngữ “chó con” không có ý đề cập tới loài chó lai hoang dã, mà là chó nhà.
3. Phần lớn trong chúng ta đều sẽ thấy khó chịu về câu nói đó. Chúng ta sẽ đứng dậy mà trở về nhà với sự thua thiệt. Tuy nhiên, đức tin chân chính vốn bền đỗ. Bà ta đã nhìn nhận tình trạng của mình và cứ tiếp tục nài xin cho được thương xót bằng cách nói: "Lạy Chúa, thật như vậy, song mấy con chó con ăn những miếng bánh vụn trên bàn chủ nó rớt xuống". Bà ta vui sướng chấp nhận vai trò của con chó nhỏ, trông đợi miếng bánh vụn rớt xuống từ bàn của chủ mình.
B. Chúa Jêsus ưa thích đức tin chân thật của người đờn bà (các câu 27-28).
1. Tôi dám cuộc nụ cười của Chúa Jêsus đã phá vỡ bối cảnh ấy ngay giây phút đó. Quyền phép của thiên đàng không hể ngăn cản được nụ cười đó! Giống như mặt trời xuyên thủng qua các đám mây sau một trận bão, lời lẽ của Chúa Jêsus đã ban thưởng cho đức tin của bà ta: "Hỡi đờn bà kia, ngươi có đức tin lớn; việc phải xảy ra theo ý ngươi muốn!"
2. Câu 20 chép rằng lời nài xin của bà ta đã được nhậm ngay tức thì vì "cũng một giờ đó, con gái người liền được lành". Hêbơrơ 11.6 chép: "Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài". Chúng ta cũng phải nói thêm rằng không có điều chi đẹp lòng Ngài cho bằng đức tin chân chính.
Một người bị lạc trong sa mạc và sắp chết vì thiếu nước. Không bao lâu sau đó ông ta đi ngang qua một máy bơm với cái bi đông đựng nước treo trên cán bơm và một lời ghi chú. Lời ghi chú ấy đọc như sau: "Bên dưới bạn là tất cả nước trong mát mà bạn sẽ cần đến, và cái bi đông chắc chứa đủ nước để mồi vào máy bơm". Điều nầy cần tới ĐỨC TIN LỚN để đổ số nước mồi chứa trong bi đông để lấy một lời hứa về nguồn nước vô hạn kia. Quí vị sẽ làm gì nào?


Thứ Năm, 4 tháng 4, 2013

Bài 57: Mathiơ 14:4 - 15:20: "Còn Tấm Lòng Của Quí Vị Thì Sao?"



MATHIƠ  – VUA CÁC VUA

Còn tấm lòng của quí vị thì sao?

Mathiơ 14:4 – 15:20
1. Trước khi chúng ta đào sâu vào phân đoạn Kinh Thánh nầy, tôi muốn quí vị cùng xem với tôi một vài phân đoạn Cựu Ước. Thứ nhứt, chúng ta hãy xem qua  Êsai 1:13-20. Trong chương mở đầu của sách tiên tri nầy, Đức Chúa Trời làm cho dân sự của Ngài nhìn biết sự thay đổi đột ngột của Ngài nơi sự thờ lạy giả hình, không thành thật của họ. Bây giờ chúng ta hãy nhìn vào chương cuối của cùng sách ấy, 66.1-3.
2. Từ hai tiểu đoạn trong Kinh Thánh Cựu Ước chúng ta kiếm được một lẽ thật thiêng liêng: Đức Chúa Trời gần như chẳng ưa những cách thức bề ngoài mà chúng ta tỏ ra cho bằng Ngài ưa thích nơi tình trạng của tấm lòng chúng ta. Ngài phán trong Amốt 5:21-24: "Ta ghét; ta khinh dể những kỳ lễ của các ngươi; ta không đẹp lòng về những hội trọng thể của các ngươi đâu.  Dầu các ngươi dâng những của lễ thiêu và của lễ chay cho ta, ta sẽ không nhận lấy; ta chẳng đoái xem những con thú mập về của lễ thù ân các ngươi. Hãy làm cho tiếng của các bài hát các ngươi xa khỏi ta! Ta không khứng nghe tiếng đờn cầm của các ngươi. Thà hãy làm cho sự chánh trực chảy xuống như nước, và sự công bình như sông lớn cuồn cuộn". Sau khi phạm tội với Bátsêba, David đã nhận biết điều nầy. Ông đã nói trong Thi thiên 51.16-17: "Vì Chúa không ưa thích của lễ, bằng vậy, tôi chắc đã dâng; Của lễ thiêu cũng không đẹp lòng Chúa: Của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là tâm thần đau-thương: Đức Chúa Trời ôi! lòng đau-thương thống-hối Chúa không khinh dể đâu". Đức Chúa Trời không hề thay đổi. Ngài không bao giờ thay đổi. Ngài đang cảm nhận y như thế hôm nay.
3. Khi Đức Chúa Trời xem xét Hội thánh nầy hay Hội thánh kia, Ngài chẳng có ấn tượng gì với chất lượng âm nhạc, tính hiệu quả của mọi chương trình, hay thậm chí số lượng người đến nhóm lại của chúng ta. Đức Chúa Trời nhìn xem tấm lòng của chúng ta. Ngài tìm kiếm những cách thể hiện hết lòng, chơn thật trong sự thờ phượng.
4. Trong phân đoạn Kinh Thánh hôm nay, Chúa Jêsus nhìn xem tấm lòng của ba nhóm người: những người với đức tin yếu đuối, đức tin tự xưng công bình và đức tin đang tấn tới. Khi chúng ta tra xét phần đáp ứng của Ngài đối với từng nhóm người nầy, hãy nhận biết rằng Ngài cũng đang tra xét tấm lòng của quí vị nữa đấy.

I. Chúa Jêsus động lòng thương xót đối với những kẻ có đức tin yếu đuối (các câu 24-26).

A. Một lần nữa, đoàn dân đông đã đến tìm kiếm sự chữa lành (các câu 34-35).
1. Quí vị hãy nhớ lại ở phần đứng trước tiểu đoạn nầy, Chúa Jêsus đã cho 5000 người ăn và rồi đã hiện ra với các môn đồ, Ngài đi bộ trên Biển Galilê ở giữa một trận bão lớn. Câu 32 chép: "khi họ lên thuyền rồi, thì gió yên lặng". Giăng 6:21 chỉ ra một việc siêu nhiên khác đã diễn ra: "Bấy giờ, môn đồ muốn rước Ngài vào thuyền; tức thì chiếc thuyền đậu vào bờ, là nơi định đi".
2. Họ đến tại "xứ Ghênêxarết", một khu vực nông nghiệp phì nhiêu giữa Cabênaum và Mađala. Tại địa điểm đẹp đẽ tốt tươi nầy, có lẽ Chúa Jêsus một lần nữa dự tính Ngài và các môn đồ đã kiệt sức cần thì giờ nghỉ ngơi.
3. Dường như ngay lập tức Ngài bị người ta "nhận biết" và họ "sai người báo tin cho khắp các miền xung quanh". Người ta kéo nhau tới, họ đem đến cho Ngài "các kẻ bịnh".
B. Một lần nữa, Chúa Jêsus đã chữa lành cho những kẻ có bịnh (câu 36).
1. Dân chúng vốn biết nhiều về Chúa Jêsus. Có lẽ họ đã nghe câu chuyện nói về người đờn bà bị bịnh mất huyết đã được chữa lành bởi cái chạm nơi "viền áo Ngài". Họ đã có chính niềm hy vọng ấy và đã "xin" Ngài cho phép họ cũng được rờ đến Ngài.
2. Với lòng thương xót lớn lao, Chúa Jêsus đã cho phép họ làm thế và "ai rờ đến cũng đều được lành bịnh cả". Quí vị không thể hình dung được bối cảnh ấy sao?
3. Mặc dù Chúa Jêsus muốn chữa lành cho thân thể họ, Ngài còn muốn chữa lành cho linh hồn họ nhiều hơn nữa. Ngài không những muốn làm thoả mãn mọi nhu cầu cấp bách của họ, Ngài còn muốn làm thoả mãn mọi nhu cần đời đời của họ nữa. Phần nhiều người trong số dân đông ấy giống với những kẻ mà chúng ta gặp gỡ hôm nay, họ tìm kiếm Đức Chúa Trời vì những thứ họ cần và chẳng quan tâm mấy đến những gì Ngài mong muốn. Phải, Chúa Jêsus đã làm thoả mãn mọi nhu cần của họ không cứ là nhu cần gì.
MacArthur mô tả sự ấy như thế nầy: "Vì họ không xin một bữa ăn đầy, Ngài đã không từ chối không cho họ một miếng bánh. Vì họ đã không xin Ngài cứu giúp về mặt thuộc linh, Ngài đã không từ chối không giúp họ về mặt thuộc thể. Mặc dù họ hời hợt, vô ơn và chỉ biết lấy cái tôi làm trọng, Ngài động lòng thương xót chữa lành cho họ hầu tỏ ra tấm lòng đầy sự thương xót của Đức Chúa Trời".
4. Có một bài học cho Hội thánh chúng ta ở đây. Chúng ta phải làm thoả mãn cho người ta ở nơi họ sinh sống trước khi chúng ta có thể giúp họ sống ở nơi mà Đức Chúa Trời muốn họ sống. Chúng ta phải bằng lòng với tình yêu thương làm thoả mãn mọi nhu cần của họ hầu cho có được cơ hội làm thoả mãn mọi nhu cần đời đời của họ.

II. Chúa Jêsus có sự xét đoán đối với những kẻ có đức tin tự xưng công bình (các câu 1-9).

A. Thắc mắc của người dòng Pharisi (các câu 1-2).
1. Mặc dù Chúa Jêsus động lòng thương xót đối với những kẻ muốn có điều chi đó ra từ Ngài, Ngài có sự xét đoán đối với những kẻ chẳng muốn chi ra từ Ngài. Đây đúng là trường hợp khi "mấy người Pharisi và mấy thầy thông giáo" xuất hiện trên bối cảnh.
2. Họ là những tên thám tử đã đến từ "thành Jerusalem". Họ đã tìm kiếm sẵn một phương thức để vu cáo và giết Ngài.
3. Họ hỏi: "Sao các môn đồ thầy phạm lời truyền khẩu của người xưa? Vì họ không rửa tay trước khi ăn". Đây không phải là vấn đề của sự thanh sạch mà là vấn đề của “truyền khẩu đời xưa”.
4. Trải qua nhiều thế kỷ kể từ khi Đức Chúa Trời ban bố luật pháp của Ngài qua Môise, các nhà lãnh đạo người Do thái đã thêm thắt những cách lý giải của họ về luật pháp. Điều nầy được gọi là "truyền khẩu của người xưa". “Những lời truyền khẩu” nầy đã được xem trọng, người Do thái hiển nhiên đã xem mọi lối lý giải nầy còn cao hơn cả chính mình Kinh Thánh nữa.
5. Còn về trường hợp rửa tay. Các rabi dạy rằng có một con quỉ có tên là Shibtah tự nhập vào hai bàn tay của con người trong khi họ còn ngủ mê và rồi nhập vào thân thể họ qua thức ăn từ bàn tay của họ. Vì thế họ đã cẩn thận rửa tay trước khi ăn hoặc họ sẽ không ăn uống chi hết.
6. Các môn đồ đã không phá vỡ luật pháp của Đức Chúa Trời. Lời của Đức Chúa Trời thậm chí không hề nhắc tới một việc càn dỡ như vậy. Chắc chắn có nghi thức rửa tay trong Cựu Ước, song đấy chỉ là những dấu hiệu bên ngoài của các lẽ thật thuộc linh.
B. Phản ứng của Chúa Jêsus (các câu 3-9).
1. Chúa Jêsus đáp trả thắc mắc nầy bằng cách hỏi lại một câu hay hơn: "Còn các ngươi sao cũng vì cớ lời truyền khẩu mình mà phạm điều răn của Đức Chúa Trời?" Ngài chẳng màng tới những lời truyền khẩu của loài người nhưng tuyệt đối quan tâm đến Lời của Đức Chúa Trời.
2. Ngài nhắc tới điều răn thứ 5 trong câu 4  cũng chỉ ra án phạt cho những ai "mắng nhiếc cha mẹ".
3. Hãy chú ý sự khác biệt trong câu 4 và câu 5: "Vì Đức Chúa Trời đã truyền… nhưng các ngươi lại nói…". Truyền khẩu của người xưa dạy rằng một người có thể dâng hiến hết thảy tiền bạc và của cải của mình như "của dâng cho Đức Chúa Trời" và người ấy "không cần phải hiếu kính cha mẹ". Việc nầy giống như có tiền bạc biệt riêng ra cho việc xây cất nhà thờ hay dâng cho một chức vụ nào đó và rồi từ chối không sử dụng số tiền ấy phụ giúp cho cha mẹ đã cao tuổi đang có cần vậy.
4. “Lời truyền khẩu” nầy chẳng có gì khác hơn một phương thức khéo léo trong việc lẫn tránh trách nhiệm gắn bó với điều răn thứ 5. Đây là một lời cáo lỗi cho việc bất tuân Đức Chúa Trời. Họ đang sử dụng việc dâng hiến cho Đức Chúa Trời như một lời cáo lỗi để không làm theo những điều Đức Chúa Trời đã truyền dạy. Không có gì phải ngạc nhiên khi Chúa Jêsus gọi họ là "kẻ giả hình".
5. Bởi “lời truyền khẩu” của họ, họ cho "điều răn của Đức Chúa Trời" là không có hiệu lực nữa. Những kẻ giả hình, khi ấy và bây giờ cũng y như thế. Họ thích cái vẻ bề ngoài của tôn giáo và vẻ đứng đắn bên ngoài song lại là ích kỷ và lấy cái tôi làm trọng ở bên trong.
6. Chúa Jêsus phán: "Êsai đã nói tiên tri về các ngươi là phải lắm…" "Êsai đã mô tả các ngươi… Êsai có một mục tiêu khi ông ấy nói tới các ngươi…" Mặc dù vị tiên tri đã nói với thế hệ của chính ông, lời nói của ông là đầy đủ cho hạng người giả hình khi ấy và bây giờ, các câu 8-9. II Timôthê 3.5 mô tả hạng người thể ấy là "bề ngoài giữ điều nhơn đức, nhưng chối bỏ quyền phép của nhơn đức đó".
7. Đồng minh thân thiết nhất của Satan chính là những "kẻ giả hình". Quí vị có thể là một kẻ giả hình đáng tin sao? Tôi nghĩ…hết thảy đều có một ít giả hình đó. Đấy là lý do tại sao chúng ta cần phải biết chắc tấm lòng của chúng ta đang ở gần Đức Chúa Trời, chớ không phải đang ở cách xa Ngài.
8. Chúa Jêsus không thiếu lòng thương xót dành cho người nghèo thiếu, nhưng Ngài chẳng nói một lời nào với các đối tượng giả hình… chúng ta cũng không nên nói một lời nào với họ.

III. Chúa Jêsus có sự chỉnh sửa với hạng người có đức tin đang tấn tới (các câu 10-20).

A. Chúa Jêsus chia sẻ nguyên tắc ô uế với đoàn dân đông (các câu 10-11).
1. Giờ đây Chúa Jêsus "gọi đoàn dân đến" để "nghe và hiểu" một lẽ đạo quan trọng. Ngài làm thoả mãn mọi nhu cầu, tiếp đến Ngài dạy đạo.
2. Dân chúng đã nghe sự trao đổi của Ngài với các nhà lãnh đạo tôn giáo và Ngài sử dụng thì giờ vàng ngọc nầy để giúp cho họ hiểu rằng sự ô uế không đến từ bên ngoài, mà đến từ bên trong (câu 11). Chúng ta được sanh ra đã bị ô uế!
3. Có một vấn đề quan trọng với sự ô uế trong thế giới của chúng ta. Là Cơ đốc nhân, chúng ta có một trách nhiệm đạo đức phải canh giữ sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Chúng ta phải quan tâm tới sự ô uế về mặt thuộc linh. Từ ngữ "dơ dáy" trong câu 11 có ý nói tới "ô uế hay làm cho dơ dáy".
B. Chúa Jêsus chia sẻ  các điểm đặc trưng của sự ô uế với các môn đồ (các câu 12-20).
1. Mác 7.17 cho chúng ta biết ở điểm nầy Chúa Jêsus "vào trong nhà, cách xa đoàn dân". Các môn đồ, có lẽ đã hỏi với nỗi sợ hãi: "Thầy có hay rằng người Pha-ri-si nghe lời thầy nói mà phiền giận chăng?" Tất nhiên Ngài biết rõ họ đã "phiền giận", Ngài cố ý làm mất lòng họ! Hãy tiếp thu điều nầy: những kẻ giả hình LUÔN LUÔN bị mất lòng bởi lẽ thật!
2. Không những hạng người giả hình bị mất lòng bởi lẽ thật, họ còn bị định cho sự phán xét nữa. Họ là thứ cỏ lùng mà "Cha trên trời không trồng" cùng lượt với lúa mì, và họ sẽ bị "nhổ đi" rồi bị ném vào ngọn lửa.
3. Chúa Jêsus đã đưa ra một lời cảnh cáo mạnh mẽ về hạng người thể ấy: "Hãy để vậy". Thậm chí đừng đến gần họ nữa. Quí vị không phải "quăng ngọc trai cho heo". Đừng phí thì giờ với những kẻ không chịu nghe lẽ thật.
4. Tại sao vậy? Họ rất nguy hiểm và dẫn người ta đi lạc đường. Họ bị “mù” về mặt thuộc linh và sẽ nhóm nhiều người khác quanh họ, họ cũng bị “mù” và hết thảy họ sẽ cùng nhau “té xuống hố” (nghĩa là, chịu phán xét).
5. Phierơ thấy thật là khó tin rằng các cấp lãnh đạo tôn giáo đáng kính lại bị “mù” về mặt thuộc linh. Ông thấy khó chấp nhận sự thực ô uế lại xuất phát từ bên trong, vì vậy ông đã nói: "Xin thầy cắt nghĩa lời ví dụ ấy cho chúng tôi".
6. Chúa Jêsus phán: "Các ngươi cũng còn chưa hiểu biết sao?" Quí vị có nhận thấy sự buồn rầu trong giọng nói của Ngài chăng? Các môn đồ, sau hơn 2 năm truyền giáo vẫn chưa nhìn thấy sự khác biệt giữa cái gì là thuộc thể, cái gì là thuộc linh.
7. Vì vậy, Chúa Jêsus phán: "Vật gì vào miệng thì đi thẳng xuống bụng, rồi phải bỏ ra nơi kín đáo". Đồ ăn theo phần xác sẽ không làm hại về mặt thuộc linh. Nó đi ngang qua thân thể. Mác 7:19 nói sở dĩ như vậy là "vì sự đó không vào lòng người".
8. Ngược lại, điều chi "ra từ tấm lòng" ra từ tâm linh, linh hồn và tâm thần: "thì những điều đó làm dơ dáy người".
9. Trong tấm lòng của con người tự nhiên là "ác tưởng, những tội giết người, tà dâm, dâm dục, trộm cướp, làm chứng dối, và lộng ngôn". Danh sách nầy còn nữa và dài lắm. Khi quí vị nhìn vào danh sách ấy quí vị phải nhìn nhận rằng mọi sự đó đều có trong lý trí của mình không lúc nầy thì lúc khác. Chúng đến từ đâu? Chúng đã đến từ “tấm lòng” của quí vị. Giêrêmi 17:9 chép: "Lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất là xấu xa: ai có thể biết được?"
10. Trong 23:27, Chúa Jêsus phán với người Pharisi: "Khốn cho các ngươi, thầy thông giáo và người Pha-ri-si, là kẻ giả hình! vì các ngươi giống như mồ mả tô trắng bề ngoài cho đẹp, mà bề trong thì đầy xương người chết và mọi thứ dơ dáy".
            Chúa Jêsus đang nhìn vào tấm lòng của chúng ta. Ngài làm thoả mãn mọi nhu cần của chúng ta nơi chúng ta sinh sống, nhưng Ngài nhìn xem tấm lòng của chúng ta. Ngài là Đấng duy nhứt có thể biến tấm lòng dơ dáy thành một tấm lòng thanh sạch.