Thứ Sáu, 9 tháng 8, 2013

Bài 71: Mathiơ 5:27-30: "Lăng Nhăng Hay Tà Dâm"


MATHIƠ – VUA CÁC VUA
SỨ ĐIỆP CỦA NHÀ VUA
Lăng nhăng hay tà dâm?

Mathiơ 5:27-30 

1. Steve Farrar trong quyển sách nổi tiếng Pointman viết: “Chúng ta hãy bỏ đi cách nói năng có bề ngoài nghiêm chỉnh, song thực tế chẳng có nghĩa lý chi hết. Chúng ta hãy đặt sự việc kia lên bàn đi. Chúng ta gọi đó là sự tà dâm!?! Trong chiến trận của gia đình, tà dâm là hành động bội tín. Chúng ta đã phát triển một từ ngữ có phần lịch sự và có tính nguỵ biện. Tà dâm đã trở thành một vụ ‘lăng nhăng’. Khi người chồng lìa bỏ vợ con vì một người đờn bà khác rồi hành động một cách hấp tấp như một đứa trẻ mới lên cấp hai, đấy không phải là ‘lăng nhăng’ đâu. Đó là tà dâm… Một vụ lăng nhăng… Từ ngữ ấy có một phần đẹp đẽ đấy, nghe kêu lắm đó… Chắc chắn đây không phải là một từ ngữ mang nặng tính phán xét giống như chữ tà dâm. Chữ ‘lăng nhăng’ khá mượt mà và chẳng có ý đe doạ… Khi tôi còn nhỏ, tôi thường đi xem hội chợ. Chúng tôi có thì giờ để ăn kẹo bông, lái xe Ferris, và chơi game trong nhà có mái vòm. Khi bạn đi hội chợ, bạn để tất cả các trách nhiệm của cuộc sống đời thường lại sau lưng, ít nhất là trong mấy tiếng đồng hồ. Cuộc sống có nhiều trò đùa ở hội chợ. Có thể đó là lý do tại sao chúng ta gọi tà dâm là một vụ lăng nhăng. Nó để lại sau lưng mọi trách nhiệm của bạn”.
2. Thật là thú vị khi thấy một quyển sách đã được viết ra 2.000 năm vẫn còn có hiệu lực như thế. Lời lẽ của Chúa Jêsus trong bài giảng trên núi vẫn thông dụng như cuốn phim hoặc chương trình TV mới mẻ nhất. Hãy lắng nghe các thông tin biểu hiện bằng các con số về tà dâm.
                  A. Theo tờ USA Today, 39% đờn ông và 27% đờn bà đang sinh sống ở Mỹ đáp ứng với phần tra cứu nói họ có một vụ lăng nhăng ngoại tình, đó là sự tà dâm.
                  B. Các nghiên cứu chuyên về các vụ việc ngoại tình nhắm vào số người ở độ tuổi 40 cho thấy rằng ít nhất 50% những người đờn ông đã có gia đình tại Mỹ và 26% những phụ nữ đã có gia đình, họ có những vụ lăng nhăng khi đến tuổi 40. Một số nhà nghiên cứu đều nghĩ số phụ nữ đã có những vụ lăng nhăng có thể lên tới 50%.
                  C. Fred Humphrey – cựu chủ tịch chương trình Liệu Pháp Tâm Lý Hôn Nhân và Gia Đình của Mỹ nói: “Ước đoán của tôi về số người có một vụ lăng nhăng là rất nhiều và họ đã không dám nhận như thế”. Các chuyên gia nói các vụ lăng nhăng ngoại tình hiếm có những cứu cánh vui vẻ. Humphrey chỉ ra rằng khoảng phân nửa các cặp hôn nhân vừa ly dị vừa ly thân khi người nầy hay được vụ lăng nhăng của người kia. Nhiều người khác tinh thần đau khổ khi cố gắng cứu lấy mối tương giao. Ông nói: “Hay được tin tức ấy, tấm lòng liền đau đớn và nổi giận dữ ngay, tiếp đến luôn luôn có một hàng rào ngăn trở, ở một chừng mực nào đó”.
            3. Đối với tôi việc nầy không gây ngạc nhiên lắm đâu, vì tội phạm về tình dục rất hay có giữa vòng những người chưa tin Chúa. Sự  thật đáng buồn đó lại thường hay có giữa vòng những người có đức tin nữa. Tôi chẳng hồ nghi gì, vì có những người nghe lời tôi nói đã kinh nghiệm sự cám dỗ, phạm vào tình dục và vướng lấy nỗi đau đớn của sự tà dâm.
            4. Phân đoạn nầy là một chuỗi liên tục của “Bài Giảng Trên Núi” của Chúa Jêsus. Lời Đức Chúa Trời có nội dung trước tiên là nội tại, rồi mới ngoại tại. Không những Đức Chúa Trời quan tâm tới những gì chúng ta làm, Ngài còn quan tâm tới những gì chúng ta nghĩ suy nữa. Chúng ta hãy xét qua 3 phương diện của phân đoạn đang có trước mặt chúng ta: NAN ĐỀ, KIỂU CÁCH,SỰ PHÒNG NGỪA bệnh tà dâm.

I. NAN ĐỀ VỀ SỰ TÀ DÂM (câu 27).
      A. Chúa Jêsus bắt đầu phân đoạn nầy bằng cách trưng dẫn Điều Răn Thứ Bảy trong 10 Điều Răn (Xuất Êdíptô ký 20:14). Ngài phán: “Các ngươi có nghe lời phán rằng: Ngươi chớ phạm tội tà dâm”. Người Dothái quá rành với câu nầy rồi. Đây là một bài giảng thường trực của người dòng Pharisi.
      B. Tà dâm, nói thẳng thừng đến việc ăn nằm xác thịt với ai đó hơn người bạn đời của một người. Nguyên tắc ám chỉ ở đây còn rộng hơn thế. Tình dục trước hôn nhân là tình dục ngoại tình.
      C. Những cám dỗ về xác thịt đã hiện hữu từ khi con người sa vào tội lỗi; tuy nhiên, trong nền văn hoá hiện đại, điên dại về tình dục của chúng ta, nó đã lên tới mức lan rộng như bệnh dịch vậy.
            1. Tình dục buông thả oanh tạc chúng ta khắp mọi nơi. Từ những thông báo, tạp chí, thương mại, quảng cáo… Mọi sự từ kẹo cao su đến các phụ tùng xe hơi đều sử dụng tình dục như một lời chào mời mua bán.
            2. Hollywood đang ở trong cuộc tìm kiếm để xem coi có bao nhiêu nội dung tình dục bị ngăn cấm mà nhiều người Mỹ sẽ chấp nhận. Giờ đây có nhiều mạng lưới chương trình giờ cao điểm trình bày những cảnh khoả thân tình dục. Mỗi năm các hãng phim chính đưa ra những giới hạn, trình bày ngày càng nhiều phần thân thể hơn. Điều nầy thường tạo ra nhiều vụ tai tiếng cho một ngôi sao điện ảnh khi trưng bày da thịt nhiều quá. Thực như thế đấy! Ngay lúc nầy đây, nam hay nữ diễn viên nào không trưng bày cơ thể sẽ không tìm được bao nhiêu việc làm.
            3. Thậm chí trong những tháp ngà của học viện và giữa vòng nhiều Cơ đốc nhân đang có những hội nghị chuyên đề, sách báo, băng ghi âm mọi thứ đều được cung ứng để nâng cao sự thưởng thức về tình dục.
            4. Mọi sự tôi nhắc tới là hành động khiêu dâm kín đáo nhẹ mà thôi. Dây chuyền tiện lợi các cửa hàng trong thành phố của chúng ta đang bán những tạp chí khiêu dâm chung môt cái kệ với tạp chí Giữ Nhà Sao Cho Tốt và tờ Tin Tức Thế Giới của Mỹ. Hầu hết từng cộng đồng ở Mỹ đều có thêm nhiều cửa hàng sách báo và các câu lạc bộ vũ thoát y.
            5. Tại sao chúng ta ngạc nhiên khi tội phạm về tình dục lúc nào cũng ở cao độ cả vậy? Tại sao dường như người ta bị sốc khi nghe thấy gần phân nửa số người đã kết hôn trong quốc gia nầy đã phạm tội tà dâm? Tại sao chúng ta lấy làm lạ khi hơn phân nửa những cuộc hôn nhân trong đất nước nầy lại kết thúc trong ly dị?
            6. Nền văn hoá của chúng ta đang dạy cho người ta phải nghĩ rằng tình dục là một nhu cần khác của xác thịt không có một tác dụng phụ nào hết. Tạp chí Eternity trưng dẫn Hugh Hefner – nhà sáng lập ra tờ Playboy, ông ta cho biết:
            “Tình dục là một chức năng của cơ thể. Một chức năng mà con người có giống như các loài động vật khác. Giống như ăn, uống và ngủ vậy. Đó là một đòi hỏi của thể xác cần phải được làm cho thoả mãn. Bạn sẽ gặp phải đủ thứ loạn thần kinh chức năng và ức chế về tâm thần. Tình dục phải có mặt ở đây. Chúng ta hãy quên đi tính kiểu cách đoan trang khiến cho chúng ta tránh né tình dục. Hãy ném bỏ đi mọi điều ức chế, hãy tìm một cô gái có tính sẵn lòng và hãy để cho bản năng của bạn hoạt động”.
            7. Sự cám dỗ về tình dục đã đạt tới mức lan truyền như một bệnh dịch rồi. Đừng mong sẽ có gì khá hơn. Mà sẽ ngày càng tệ hại hơn mà thôi. II Timôthê 3:13 chép: “Nhưng những người hung ác, kẻ giả mạo thì càng chìm đắm luôn trong điều dữ, làm lầm lạc kẻ khác mà cũng lầm lạc chính mình nữa”.
      D. Cần phải hiểu rằng Đức Chúa Trời không xem tình dục là tội lỗi.
            1. Đức Chúa Trời đã dựng nên và đã ấn định tình dục với ý định ban cho chúng ta sự khoái lạc, sự thoả mãn và công tác nhân giống con người.
            2. Đức Chúa Trời đã đặt ra những giới hạn về tình dục. Tình dục chỉ được phép trong vòng hôn nhân với người bạn đời của mình mà thôi.
            3. Khi Đức Chúa Trời đặt Ađam và Êva sống chung với nhau, Ngài phán: “Cả hai sẽ nên một thịt” (Sáng thế ký 2:24).
            4. Hêbơrơ 13:4 chép: “Mọi người phải kính trọng sự hôn nhân, chốn quê phòng chớ có ô uế, vì Đức Chúa Trời sẽ đoán phạt kẻ dâm dục cùng kẻ phạm tội ngoại tình”. Bất cứ lúc nào đôi hôn phối hiệp nhau trong sự liên ứng và khoái lạc đều vì sự tôn vinh Đức Chúa Trời. Dù vậy Đức Chúa Trời sẽ xét đoán người nào lạm dụng tình dục.
            5. Nhã ca là quyển sách nói về tình dục!
            6. Châm ngôn 5:18-19 chép: “Nguyện nguồn mạch con được phước; Con hãy lấy làm vui thích nơi vợ con cưới buổi đang thì, Như nai cái đáng thương, và hoàng dương có duyên tốt, Nguyện nương long nàng làm thỏa lòng con luôn luôn, Và ái tình nàng khiến cho con say mê mãi mãi”.
            7. Hãy lưu ý sự dạy của Phaolô đối với những cặp hôn phối ở I Côrinhtô 7:3-5.
            8. Roger Stauback nói với Phyllis George: “Tôi ăn nằm nhiều lần với Giôên Nameth. Tôi chỉ làm điều đó với một người đờn bà mà thôi”.
      E. Đức Chúa Trời luôn luôn xét đoán tà dâm là tội lỗi.
            1. Con người tìm cách bào chữa cho tội tà dâm bằng nhiều cách: người bạn đời không đáp ứng, không chung thuỷ, nhạt nhẻo, không hấp dẫn, v.v…
            2. Luật pháp Môise ghi rằng tà dâm bị kết án tử hình (Lê vi ký 20:10; Phục truyền luật lệ ký 22:22). Người Pharisi và các thầy thông giáo hội ý ném đá người đờn bà mà họ mang đến cho Chúa Jêsus (Giăng 8:4-5).
            3. Khi một Cơ đốc nhân phạm tội tà dâm, người ấy đem Đấng Christ theo vào phòng ngủ với mình (I Côrinhtô 6:13b-20).
            4. Một trong các sách xưa nhất trong Kinh Thánh, sách Gióp chứa câu nầy: “Nếu lòng tôi bị người nữ quyến dụ, nếu tôi rình rập ở nơi cửa của lân cận tôi, nguyện vợ tôi xây cối cho người khác, và kẻ khác nằm chung cùng nàng. Vì điều ấy vốn tội trọng gớm ghê, một tội ác đáng bị quan xét đoán phạt”.
            Hilde Houlding – điều phối viên của cơ quan tư vấn Calgary Family mô tả một vụ lăng nhăng theo cách nầy: “Một vụ lăng nhăng thường là một nổ lực để tìm kiếm một góc thiên đàng, theo đuổi niềm tin cho rằng nếu một người tìm đúng người bạn tình thì sẽ là hạnh phúc ngay và mọi sự sẽ rơi đúng chỗ. Một vụ lăng nhăng thường làm phu phỉ chuyện hoang tưởng nầy cho tới khi tự nó trở thành một mối quan hệ cần phải có luôn luôn và được truy xuất theo ánh sáng lâu dài”. Khi người ta phạm tội tà dâm, họ quên rằng khi họ bước vào bất kỳ một mối quan hệ nào mới mẻ, họ luôn luôn đem theo chính bản thân họ. Bài hát có lời: “Bất cứ đâu bạn đi tới, thì cái tôi của bạn có mặt ở đó rồi”.

II. KIỂU MẪU CỦA SỰ TÀ DÂM (Câu 28).
      A. Chúa Jêsus cung ứng ý nghĩa đích thực của điều răn nầy.
            1. Hãy so sánh câu 28 với câu 27. “Các ngươi có nghe lời phán rằng… Song ta phán cho các ngươi biết…”. Chúa Jêsus đang phán: “như là có quyền, chớ không giống các thầy thông giáo” (7:29).
            2. Ngài không nói về tôn giáo chỉ có bề mặt, nặng phần trình diễn của người dòng Pharisi, mà nói tới vấn đề chơn thật ở đàng sau điều răn.
            3. Mục đích của Ngài: ấy là trước khi sự tà dâm diễn ra trên giường ngủ, thì nó đã diễn ra ở trong đầu rồi.
      B. Chúa Jêsus nói rằng “động tình ham muốn” là tà dâm ở trong lòng.
            1. Thưa quý ông, tất cả chúng ta đều công nhận có nhiều phụ nữ xinh đẹp. Thưa quý bà, quý vị đều từng gặp gỡ nhiều người đờn ông điển trai. Đấy không phải là điều Chúa Jêsus phán dạy ở đây.
            2. Khi một người “ngó đờn bà mà động tình ham muốn” người ấy chủ ý ngó nàng để thoả mãn dục vọng tội lỗi của xác thịt mình. Thưa quý ông, chúng ta hãy sống cho thành thật, hết thảy chúng ta đều đã phạm tội ở đây.
            3. Ngó mà động tình ham muốn không khiến cho một người phạm tội tà dâm ở trong lòng. Đó là tội của tấm lòng gây ra cái ngó động tình ham muốn.
            4. Đây không phải là sự cám dỗ bất ngờ và không thể tránh được về tình dục đâu!
Hãy tưởng tượng bối cảnh nầy. Một Cơ đốc nhân đã có vợ, đang làm việc trong văn phòng có nhiều phụ nữ xinh đẹp. Một trong số các phụ nữ đó đặc biệt dễ nhìn khiến cho người nầy nhận biết rằng cô ta vốn ưa thích tình dục. Cô ta ăn mặc hở hang và tìm cách khêu gợi ông ta bằng lối nói chuyện và cách xử sự của cô ta. Satan sẽ dùng người nữ nầy để cám dỗ người đờn ông kia, nhưng dù ông ta cảm thấy có một sự cuốn hút về xác thịt, đấy chưa phải là tà dâm ở trong lòng.
            5. Tà dâm ở trong lòng là khi người nầy suy nghĩ những tư tưởng về tình dục với ai đó và đang trần truồng với họ.
            6. Đavít không phạm tội khi nhìn thấy Bátsêba đang tắm. Ông đã phạm tội khi ông bắt đầu động tình ham muốn nàng và sai vời nàng.
            7. Tội lỗi luôn luôn bắt đầu ở trong trí (Giacơ 1:13-16).
            8. Thí dụ trong phân đoạn Kinh Thánh nói về một người nhìn xem người nữ mà động tình ham muốn. Tuy nhiên, nguyên tắc về động tình ham muốn cũng áp dụng cho phụ nữ nữa.
Cách đây mấy năm, Arthur Pink đã viết: “Nếu ngó mà động tình ham muốn tai hại như một tội lỗi, thì người nào tự phơi bày ra với ý khao khát muốn được người ta nhìn ngó và sau đó động tình dục… Không phải tội ít mà là tội nhiều. Trong hình thái nầy không những đây là trường hợp khiến cho nam giới phạm tội, mà nữ giới cũng cám dỗ họ phạm tội nữa”.
            9. Gióp nói: “Tôi đã có lập ước với mắt tôi; Vậy, làm sao tôi còn dám nhìn người nữ đồng trinh?” (31:1).
            10. chúng ta cần phải lưu ý trường hợp của Giôsép và hãy bỏ chạy khi thấy sự cám dỗ qua mạnh (I Côrinhtô 10:13).

III. BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA SỰ TÀ DÂM (các câu 29-30).
A.      Con người đã sử dụng một số phương tiện quyết liệt để tránh né tội phạm về tình dục.
            1. Origen ở Alexandria, một trong các lãnh đạo của Hội thánh đầu tiên đã tự làm mình ra hoạn để thắng hơn sự cám dỗ của tình dục.
            2. A.J. Gossip – một nhà truyền đạo người Tô cách Lan đã kể về một thanh niên đã nổi hứng cắt đứt bàn tay của mình bằng chiếc dao cạo.
            3. Có người thậm chí đã có gia đình lại quyết định không giao tiếp về tình dục vì họ tin mọi kinh nghiệm về tình dục đều là tội lỗi.
      B. Lời lẽ của Chúa Jêsus ở các câu 29-30 đều là nghĩa bóng, chớ không phải nghĩa đen.
            1. Trong câu 29, Ngài phán rằng nếu “mắt bên hữu xui cho ngươi phạm tội”, người phải “móc mà quăng nó cho xa”. Nếu chúng ta làm theo nghĩa đen thì sẽ có nhiều người một mắt trong phòng nầy!
            2. Trong câu 30, Ngài phán rằng nếu “tay hữu xui cho ngươi phạm tội” thì tốt hơn “hãy chặt mà liệng nó cho xa ngươi đi”. Một lần nữa, một sự giải thích theo nghĩa đen sẽ khiến cho có rất nhiều người còn có một tay mà thôi.
            3. Mệnh đề “xui cho ngươi phạm tội” ra từ chữ Hy lạp skandalizo, cơ bản có ý nói tới “vấp ngã”. Chữ nầy được dùng nói tới miếng mồi khiến cho con thú bị lọt bẫy. Bất cứ điều chi khiến cho chúng ta phạm tội đều là miếng mồi, và chúng ta cần phải hiểu biết nhiều hơn.
      C. Chúng ta hãy chú ý vài chìa khoá cho việc thắng hơn sự cám dỗ về tình dục, đặc biệt là tà dâm, dù là lý trí hay xác thịt.
            1. Đặt phần LÃNG MẠN vào cuộc hôn nhân của bạn.
                  a. Thưa quý bà, chẳng có một điều gì giữ nổi đôi mắt và hai bàn tay của chồng quý vị, đừng lạc lối theo kiểu lãng mạn tại nhà. Quý vị có làm đẹp hết sức cho chồng mình không!?!
                  b. Còn đờn ông thì chẳng có gì giống như lịch sự, nhã nhặn và phong thái. Hãy lắng nghe vợ mình xem. Nàng ngày càng đáng ao ước và đáng sẵn sàng cộng tác hơn.
                  c. Hãy nhớ I Côrinhtô 7:5 chép: “Đừng từ chối nhau, trừ ra khi hai bên ưng thuận tạm thời, để chuyên việc cầu nguyện; rồi trở lại hiệp cùng nhau, kẻo quỉ Sa-tan thừa khi anh em không thìn mình mà cám dỗ chăng”.
David Mains – tác giả của quyển “50 ngày mạo hiểm thuộc linh”, ông nói: “Khi hai người đã định trong trí rằng ‘Chúng ta hãy yêu nhau’; rồi họ đưa ra lời thề hứa trước mặt Đức Chúa Trời và nhiều người chứng kiến. Từ ngày đó trở đi họ không còn so sánh nữa. Mỗi người phải nói: ‘Toàn bộ tình cảm của tôi được dành cho người bạn đời của tôi rồi, và tôi sẽ không cho phép bản thân mình suy nghĩ lãng mạn về người khác nữa”.
Mục sư James Dobson đã viết: “Chìa khoá cho một cuộc hôn nhân lành mạnh là giữ đôi mắt của bạn sao cho mở rộng ở trước đám cưới – rồi sau đó đóng lại một bên”.
                  d. Còn người độc thân thì sao? Ở đây là hai lời khuyên cho việc thắng hơn sự cám dỗ khi không có bạn đời.
                        (1) Hãy cầu thay cho người bạn đời trong tương lai của bạn và quyết định hy sinh để giữ thanh sạch cho chàng hay cho nàng từ lúc bây giờ!
                        (2) Hãy suy nghĩ về người mà với họ bạn bị cám dỗ. Bạn không muốn người bạn đời của mình trong tương lai dính dáng tới tình dục với ai khác.
            2. Hãy đọc thuộc lòng và trưng dẫn KINH THÁNH.
                  a. Nếu bạn tranh đấu với tư dục, hãy học thuộc lòng một số phân đoạn Kinh Thánh về tội tà dâm rồi trưng dẫn chúng ra khi bị cám dỗ (Gióp 31:9-12; Châm ngôn 6:24-35; I Côrinhtô 9:27; Êphêsô 4:22; II Timôthê 2:22; Giacơ 1:14-16).
                  b. Hãy thay thế các tư tưởng dục vọng với những người mạnh khoẻ. Hãy chiếm hữu lý trí của bạn với các tư tưởng thanh sạch và dễ thương, đừng nghĩ tới những tư tưởng gợi dục khủng khiếp kia mà chi. Thật là khó động tình ham muốn và trưng dẫn Kinh Thánh cùng một lúc được.
            3. HÃY CẦU NGUYỆN cho người nào đang cám dỗ bạn.
                  a. Một trong số các lý do chúng ta động tình ham muốn: ấy là chúng ta nhìn thấy người khác là đối tượng cho ham muốn tư dục. Chúng ta đừng nhìn người ấy (nam hay nữ). Chúng ta nhìn thấy cơ thể đáng ham muốn và nghe những lời đàm tiếu.
                  b. Lần tới quý vị cám dỗ động tình ham muốn ai đó, hãy tự hỏi mình một số câu hỏi: “Người nầy có nhận biết Đức Chúa Jêsus Christ là Cứu Chúa không?. Làm sao tôi giúp được cho người (nam hay nữ) tấn tới về mặt thuộc linh?”
                  c. Thật là khó động tình ham muốn ai đó một khi quý vị quan tâm tới linh hồn của họ. Hãy ưu tiên một cho vấn đề thuộc linh, chớ không phải thể xác.
            4. Trở thành TRÁCH NHIỆM lý giải cho một người bạn Cơ đốc. Hãy tìm một tín đồ trưởng thành mà bạn biết rõ và tin cậy. Hãy dành cho ông hay bà ấy được phép hỏi han bạn một số câu hỏi khó về sự cám dỗ bất kỳ lúc nào.
            5. Hãy đếm lại CÁI GIÁ.
Hãy nhớ, tà dâm là một nổ lực tránh thoát thực tại. Farrar viết: “Miếng mồi của sự tà dâm: ấy là người đờn bà khác sẽ thực sự làm thoả mãn các nhu cần của bạn. Sự dối trá của tà dâm: ấy là không có một người đờn bà nào khác trên đất, vô luận duyên dáng, xinh đẹp như thế nào có khả năng làm thoả mãn trọn vẹn mọi nhu cần của người nào khác. Đấy là lý do tại sao tà dâm là trò lừa không phân tích được. Nó hứa hẹn mọi điều mà nó không thể chỉ ra được”.
                  a. Tà dâm sẽ làm gì cho vợ con, Hội thánh, bạn bè của bạn và những người chưa tin Chúa, đây là những con người đối với họ bạn là chứng nhân đấy.
                  b. Chẳng có một lượng khoái lạc về tình dục trong thế gian nầy đáng bỏ công ra tìm kiếm để rồi phải trả giá đắt.

***



Thứ Năm, 1 tháng 8, 2013

Bài 70: Mathiơ 19:1-12: "Chúa Jêsus Về Vấn Đề Ly Dị"


MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Chúa Jêsus về vấn đề ly dị
Mathiơ 19:1-12
1. Ly dị trong xã hội chúng ta không còn là một nan đề chính nữa. Văn phòng thống kê dân số của nước Mỹ đưa ra báo cáo nầy.
· Năm 1920 cứ 7 cuộc hôn nhân có 1 cuộc ly dị.
· Năm 1940 cứ 6 cuộc hôn nhân có 1 cuộc ly dị.
· Năm 1960 cứ 4 cuộc hôn nhân có 1 cuộc ly dị.
· Năm 1972 cứ 3 cuộc hôn nhân có 1 cuộc ly dị.
· Năm 1985 cứ 2 cuộc hôn nhân có 1 cuộc ly dị.
Bằng chứng thống kê mới nhất cho thấy rằng hơn 50% các cuộc hôn nhân hiện nay đang kết thúc trong ly dị. Tất nhiên những người đã ly dị và đã tái hôn hơn 65% trong số họ sẽ lại ly dị nữa. Mỗi năm hơn 1 triệu cuộc ly dị đang nộp hồ sơ ở nước Mỹ. Như vậy có ít nhất 2 triệu người lớn và vài triệu trẻ em bị ảnh hưởng trực tiếp. Thậm chí có những cặp vợ chồng Cơ đốc đang ly dị ở một cấp độ đáng phải báo động.
2. Khi một cuộc hôn nhân kết thúc trong ly dị, mọi người đều bị tổn thương. Có người từng nói rất khôn khéo: "Có hai việc làm không nên vội vã, là ướp xác chết và ly dị". Không có ai ở đây từng bị đau khổ dù là trong cuộc hôn nhân của mình, của cha mẹ, của anh chị em ruột, của con cái hay ai đó đang sống gần quí vị. Thậm chí giữa vòng các đôi vợ chồng Cơ đốc.
3. Ly dị và tái hôn thường nằm ở một trong bốn điều kiện cơ bản:
· Thứ nhứt, có người nói ly dị và tái hôn không được phép dưới bất kỳ hoàn cảnh nào.
· Thứ hai, nhiều người khác cho rằng ly dị được phép dưới bất kỳ hoàn cảnh nào, còn tái hôn thì không được phép.
· Thứ ba, nhiều người cho rằng ly dị và tái hôn phải được phép trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
· Sau cùng, có người nói ly dị và tái hôn cả hai đều được phép có giới hạn dưới từng hoàn cảnh.
4. Có lẽ chúng ta cả thảy đều có một quan điểm, nhưng rồi các quan điểm của chúng ta đều không thực sự quan trọng. Thắc mắc chúng ta cần phải đưa ra là “Chúa Jêsus nói gì về ly dị và tái hôn?”
5. Khi chúng ta tiếp tục phần nghiên cứu về sách Mathiơ, chương 19 cung ứng cho chúng ta quan điểm của Đức Chúa Trời về ly dị và tái hôn trực tiếp từ môi miệng của Chúa Jêsus.
I. Hôn nhân là chương trình của Đức Chúa Trời (các câu 1-6).
A. Theo Kinh Thánh (các câu 1-2).
1. Chúa Jêsus đang thi hành chức vụ trong xứ Galilê và Miền Bắc xứ Palestine trong gần hai năm trời. Trong mấy tháng sau cùng, phần lớn sự dạy dỗ của Ngài đều được dành tiêng cho các môn đồ. Câu 1 chép: "Đức Chúa Jêsus phán lời ấy xong rồi".
2. Tại điểm nầy "Ngài từ xứ Ga-li-lê mà đi đến bờ cõi xứ Giu-đê, bên kia sông Giô-đanh". Khu vực nầy ai cũng biết là xứ Bêrê. Chúa Jêsus đã nói cho các môn đồ biết rằng: "mình phải đi đến thành Jerusalem, phải chịu tại đó nhiều  sự khốn khổ bởi những người trưởng lão, thầy tế lễ cả, cùng thầy thông giáo, và phải bị giết, đến ngày thứ ba phải sống lại" (Mathiơ 16:21). Giờ đây Ngài đang bước đi trên con đường đó.
3. Trong suốt khoảng thời gian nầy "có nhiều đoàn dân đông theo Ngài và Ngài chữa lành các kẻ bịnh ở đó". Hãy tưởng tượng hàng trăm hàng ngàn người đang kéo đến để rờ đụng vào quyền phép và lòng thương xót của Ngài.
B. Thắc mắc của người Pharisi (câu 3).
1. Người Pharisi thù ghét Chúa Jêsus. 12:14 chép: "Những người Pha-ri-si đi ra ngoài rồi, bàn với nhau, lập mưu đặng giết Ngài". Không nghi ngờ chi nữa, trong khi Ngài phục vụ cho đám dân đông, họ "đến gần để thử Ngài". Họ muốn làm cho Ngài bị mất mặt trước dân chúng để dễ dàng giết Ngài hơn.
2. Họ đã có một thắc mắc được cân nhắc rất kỹ lưỡng: "Không cứ vì cớ gì người ta có phép để vợ mình chăng?" Họ muốn đặt Ngài vào chỗ nghịch lại với luật pháp của Môise.
3. Thế thì ly dị giờ đây là một đề tài nóng bỏng. Trong một xã hội mà phụ nữ bị đối đãi như một phần tài sản, người Pharisi tin vào một cuộc ly dị dễ dàng hay "không vì cớ gì". Rabi Hillel, một người đồng thời với Chúa Jêsus dạy rằng người nam có quyền ly dị vợ mình nếu nàng đã làm một điều chi đó không đẹp lòng chàng. Rabi Akiba khẳng định quyền ấy được áp dụng nếu người chồng tìm được một người nữ xinh đẹp hơn.
4. Ở chỗ khác, Rabi Shammai đã lãnh đạo một nhóm khác, nhỏ hơn nhưng có nhiều vị giáo sư trong đó, họ nói rằng ly dị là không được phép. Như chúng ta đã tiếp thu, cả hai ý kiến nầy đều không tùy theo Kinh Thánh.
5. Người Pharisi vốn biết rõ Chúa Jêsus đã cảm nhận thể nào về ly dị rồi. Ngài đã phán trong Mathiơ 5:32: "Song ta phán cùng các ngươi: Nếu người nào để vợ mà không phải vì cớ ngoại tình, thì người ấy làm cho vợ mình ra người tà dâm; lại nếu người nào cưới đàn bà bị để, thì cũng phạm tội tà dâm".
6. Họ muốn cho người ta thấy Chúa Jêsus có tâm ý hẹp hòi, cố chấp và bị mất mặt trước đoàn dân đông.
7. Một yếu tố khác, ấy là Giăng Báptít đã bị bỏ tù vì đã xét đoán Vua chư hầu Hêrốt và việc ông tái hôn tại cùng khu vực xứ Bêrê ấy.
C. Sự dạy của Chúa (câu 3).
1. Chúa Jêsus không đưa ra một câu trả lời đúng hoặc không trả lời. Thay vì thế Ngài xây qua phía Kinh Thánh. Đúng là một tấm gương! Tôi cũng được phước khi thấy Chúa Jêsus rao giảng có quyền phép từ 11 chương đầu tiên của sách Sáng thế ký!
2. Ngài hỏi với tính cách châm biếm: "Các ngươi há chưa đọc…?" Các ngươi há chưa đọc sách Sáng thế ký chăng? Các ngươi há chưa nghiên cứu Lời của Đức Chúa Trời ư? Khi ấy Ngài trưng dẫn Sáng thế ký1.27 & 2.24, những câu nói cốt lõi nói về ý định của Đức Chúa Trời cho vấn đề hôn nhân. Trong các câu 4-6, chúng ta hãy để ý bốn lý do tại sao ly dị không nằm trong chương trình của Đức Chúa Trời.
· Thứ nhứt, Đức Chúa Trời phối hiệp những người nam người nữ đặc biệt với nhau trong hôn nhân. Chúa Jêsus phán rằng Đức Chúa Trời "hồi ban đầu" đã dựng nên họ thành "người nam người nữ". Một cách dịch sát nghĩa như sau "một người nam một người nữ". Đức Chúa Trời không dựng nên một nhóm người nam và một nhóm người nữ để cho chúng ta chọn lựa. Ngài không dự định làm cho chúng ta ra dư thừa và chọn lựa. Ngài dựng nên chúng ta cho mỗi cá nhân với nhau. Rõ ràng là chỉ có một người nam và một người nữ vào lúc ban đầu, vì vậy không có việc chọn tìm kiếm một người khác. Tôi tin Đức Chúa Trời đã dựng nên vợ tôi để cho tôi. Tôi tin Ngài đã dựng nên những người đờn ông cho các cô con gái của tôi.
· Thứ hai, Đức Chúa Trời tác thành những cặp vợ chồng trong hôn nhân. Chúa Jêsus phán: "Vì cớ đó người nam sẽ lìa cha mẹ, mà dính díu với vợ mình". Từ ngữ Hy bá lai ở đàng sau "tác thành" được sử dụng để giới thiệu các món đồ dính chặt lại với nhau. Từ ngữ nầy mô tả sự ước ao của Rutơ muốn ở lại với Naômi và Israel đang nắm chặt lấy các lời giáo huấn của Đức Giêhôva. Là những cặp hôn phối, chúng ta cần phải lìa khỏi quyền lực của cha mẹ mình rồi trở nên một tâm trí, một linh hồn và một tâm linh.
· Thứ ba, Đức Chúa Trời ấn định hôn nhân cho sự hiệp một. Chúa Jêsus phán: "Hai người sẽ trở nên một thịt". Những người làm chồng, làm vợ phải hiệp với nhau theo phần xác thể (I Côrinhtô 7:2-5). Đức Chúa Trời đã ấn định những người làm chồng, làm vợ phải trở nên một thịt với nhau vì chúng ta vốn là bất toàn. Con cái là phần biểu lộ trọn vẹn sự hiệp một của chúng ta.
· Thứ tư, Đức Chúa Trời đã dựng nên từng cuộc hôn nhân. Chúa Jêsus phán: "Vậy, loài người không nên phân rẽ những kẻ mà Đức Chúa Trời đã phối hiệp!" Theo một ý nghĩa, mỗi cuộc hôn nhân, dù là Cơ đốc nhân hay không phải Cơ đốc nhân đều là một ơn phước đến từ Đức Chúa Trời. Châm ngôn 18:22 chép: "Ai tìm được một người vợ, tức tìm được một điều phước. Và hưởng được ân điển của Đức Giê-hô-va". Châm ngôn 19:14 chép: "Nhà cửa và tài sản là cơ nghiệp của tổ phụ để lại; Còn một người vợ khôn ngoan do nơi Đức Giê-hô-va mà đến". Một cuộc hôn nhân là một sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Ly dị là một sự huỷ diệt của con người.
II. Ly dị là sự nhượng bộ của Đức Chúa Trời (các câu 7-9).
A. Sự bài bác của người Pharisi (câu 7).
1. Giống như hết thảy các tín đồ giả mạo, người Pharisi không ưa thích việc tuân giữ các điều răn của Đức Chúa Trời. Họ đang tìm kiếm những kẻ hở của luật pháp để bào chữa cho tội lỗi của họ.
2. Nếu mọi điều Chúa Jêsus đã phán là thực, họ muốn biết lý do tại sao trong luật pháp Môise đã đưa ra một "tờ để" đặng "để vợ đi". Thắc mắc nầy đặt cơ sở trên sự lý giải mà họ đã vặn cong Phục truyền luật lệ ký 24:1-4. Khi quí vị đọc tiểu đoạn Kinh Thánh nầy quí vị sẽ không hề thấy một "mạng lịnh" nào cho phép ly dị mà là một sự nhượng bộ vì "một sự ô uế" hay tội lỗi. Tà dâm bị trừng phạt bởi sự chết. Tìng trạng "ô uế" có ý nói tới sự dâm dục.
B. Đáp ứng của Chúa (các câu 8-9).
1. Chúa Jêsus làm sáng tỏ phần bàn cãi bằng cách nói "Môise…cho phép để vợ". Ông không ra lịnh, mà "cho phép" bằng cách nhượng bộ "vì lòng các ngươi cứng cỏi".
2. "Lòng các ngươi cứng cỏi" có ý nói tới một người bạn đời đã vi phạm vào một sự phi luân về tình dục lâu dài mà chẳng ăn năn. Câu nói đó cũng có ý nói tới tấm lòng không biết tha thứ của một người bạn đời vô tội kia.
3. Chúa Jêsus phán: "Lúc ban đầu không có như vậy đâu". Hôn nhân là chương trình của Đức Chúa Trời, còn ly dị chỉ là sự nhượng bộ của Ngài mà thôi. Hầu hết những cuộc ly dị đều giống với việc cắt đứt bàn tay của quí vị khi quí vị bị dơ ngón tay của mình vậy!
            Cách đây nhiều năm, Deb và tôi mua một ngôi nhà ở khu vực Dallas có hồ bơi trong sân sau. Ngôi nhà bị bỏ trống không suốt mùa đông và hồ bơi bị thứ chất nhờn màu xanh lá cây bao phủ. Chúng tôi đã cho rút hết chất lỏng nhờn ấy rồi cọ rửa lại hồ bơi cho sạch sẽ. Chúng tôi đã cho đầy nước sạch vào, thêm hoá chất vào. Chúng tôi chịu khó chờ đợi để tắm trong hồ bơi đó. Tuy nhiên, trong một vài ngày nước sạch của chúng tôi chứa ở đó lại ngả màu xanh lá cây! Chúng tôi không thêm vào đủ hoặc pha trộn đúng mức các thứ hoá chất để giết đi loài tảo! Không một đôi vợ chồng nào dự tính để cho cuộc hôn nhân của họ phải đổi ra tồi tệ cả. Câu trả lời không phải là chịu thua thiệt trong cuộc sống hôn nhân, mà là thêm vào các thứ hoá chất đầy sự dạy và quyền lãnh đạo của Kinh Thánh!
4. Trong câu 9, Chúa Jêsus đưa ra một sự xưng công bình theo Kinh Thánh về vấn đề ly dị: đó là "ngoại tình". Từ ngữ Hy lạp là pornia từ đó chúng ta mới có từ “khiêu dâm” (pornography). Rõ ràng ý nghĩa ở đây là sinh hoạt tình dục trái lẽ ngoài cuộc hôn nhân.
5. Câu 9 chép ly dị với bất cứ lý do nào khác gây ra thêm nhiều sự tà dâm nữa. Điều nầy cũng bảo hộ cho phía vô tội.
III. Độc thân là sự ban cho của Đức Chúa Trời (các câu 10-12).
A. Mác 10:10 đề xuất rằng người Pharisi đã bỏ đi ngay lúc nầy và Chúa Jêsus bước vào một ngôi nhà cùng với các môn đồ để sinh hoạt riêng. Chắc chắn là họ đã nhìn biết rằng theo ý chỉ của Đức Chúa Trời, hôn nhân chỉ có thể kết thúc bằng sự chết hoặc bằng ly dị vì cớ sự tà dâm và có khi tà dâm không buộc phải ly dị.
B. Vì cớ nhận định về ly dị rất phổ thông trong lý trí của các môn đồ, họ kết thúc: "nếu phận người nam phải xử với vợ mình như vậy thì thà không cưới vợ là hơn".
C. Giống như nhiều người ngày nay, những người Do thái trong thế kỷ đầu tiên đã nhìn thấy hôn nhân là một cách để trả thù lao cho tình dục luyến ái, để sinh sản con cái và chia sẻ các trách nhiệm lẫn nhau. Một vài người nhìn xem hôn nhân là sự hiệp một.
D. Chiếu theo phần kết luận của các môn đồ, Chúa Jêsus phán rằng: "Chẳng phải mọi người đều có thể lãnh được lời nầy, chỉ người sẵn có ban cho như vậy mà thôi". Tất nhiên Ngài đang đề cập tới tình trạng sống độc thân. Dường như Phaolô đề nghị trong I Côrinhtô 7:7 rằng độc thân là một ân tứ.
E. Ngài phán rằng có người "hoạn [những người bị thiến] từ trong lòng mẹ". Họ ra đời với những dị tật bẩm sinh không có khả năng về tình dục.
F. Những người khác thì "hoạn vì tay người ta". Thường thì tôi tớ và lính canh hậu cung của các vì vua đều bị thiến để cất bỏ sự ham mến về phụ nữ cũng như tính nóng của họ.
G. Những người khác nữa "tự làm nên hoạn vì cớ nước thiên đàng". Kinh Thánh không tha thứ cho người tự cắt bỏ thịt mình. Thay vì thế Chúa Jêsus có ý nói rằng có người là "hoạn về mặt thuộc linh". Họ tình nguyện sống một đời sống độc thân để hầu việc Đức Chúa Trời. Phaolô đã có ân tứ nầy. Chúa Jêsus phán: "Người nào lãnh nổi lời ấy thì hãy lãnh lấy".
IV. Những thắc mắc và giải đáp về ly dị và tái hôn.
A. Thắc mắc #1. Nếu phi luân về tình dục là nền tảng theo Kinh Thánh để ly dị, Kinh Thánh nói gì về tái hôn? Chúng ta hãy lưu ý ba lý do theo Kinh Thánh cho tái hôn.
1. Thứ nhứt là phi luân về tình dục của một người bạn đời không ăn năn (câu 9). (Pornia) Ngoại tình có ý nói tới một cung cách sống, không phải là sự cố xảy ra có một lần. Một Cơ đốc nhân phải bằng lòng tha thứ cho người bạn đời thậm chí về tội tà dâm nếu người thành thực ăn năn (xem 18:21-23). Chúa Jêsus đã tha thứ cho chúng ta về mọi sự. Sách Ôsê trong Cựu ước là hình ảnh của Đức Chúa Trời về ân sũng và sự tha thứ của Ngài đối với tội tà dâm của dân Israel. Mặt khác, Đức Chúa Trời không muốn trừng phạt người bạn đời vô tội do có một đời sống khắc nghiệt và cô đơn.
2. Thứ hai là sự ruồng bỏ một người bạn đời tin Chúa bởi một người không tin Chúa. Chúng ta hãy đọc I Côrinhtô 7:12-15. Người tín đồ trung tín không ở "dưới vòng nô lệ" trong các trường hợp như thế. Một lần nữa, Đức Chúa Trời không muốn hình phạt người bạn đời có lòng vâng phục.
3. Thứ ba là ly dị đã diễn ra trước khi được cứu. II Côrinhtô 5:17 chép: "Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới". Đức Chúa Trời cất bỏ MỌI sự cũ! Ngài không còn nhớ đến tội lỗi nữa!
B. Thắc mắc #2. Một cuộc ly dị không theo Kinh Thánh có thể được tha thứ không? Được, đây là hai lý do tại sao.
1. Thứ nhứt, ly dị không phải là tội không thể tha thứ. Vô tín là tội lỗi duy nhứt Đức Chúa Trời không thể và sẽ không tha thứ. Người ta không "sống trong tình trạng tà dâm". Họ đã phạm tội tà dâm. Tôi đã nhìn thấy các cấp lãnh đạo Hội Thánh ca ngợi ân điển của Đức Chúa Trời khi họ nhớ lại họ từng là thành viên của các băng du đảng, nghiện ma tuý, giết người sau khi họ được cứu. Tôi đã nhìn thấy cũng chính các cấp lãnh đạo đó từ chối không sử dụng những người đã ly dị. Tôi cho rằng bản thân họ đều phạm tội “tà dâm ở trong lòng” Chúa Jêsus phán vậy ở Mathiơ 5:28.
2. Thứ hai, ân sũng của Đức Chúa Trời tha thứ và thanh tẩy chúng ta khỏi MỌI tội của chúng ta. Rôma 8:1 chép: "Cho nên hiện nay chẳng còn có sự đoán phạt nào cho những kẻ ở trong Đức Chúa Jêsus Christ". I Giăng 1.9 chép: "Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác".
C. Thắc mắc #3. Có phải những kẻ đã ly dị và tái hôn dưới hoàn cảnh không theo Kinh Thánh đang sống trong tình trạng tà dâm chăng? Không, họ đã phạm tội tà dâm. Vua David đã phạm tội tà dâm với Bátsêba nhưng Đức Chúa Trời đã tha thứ cho ông. Dù sự hội hiệp của họ mới có Solomon là người đã nối ngôi David làm Vua là đã có mặt trong gia phổ vương giả của Đấng Christ. David đã được tha thứ, nhưng đã sống với mọi hậu quả của tội lỗi mình (Galati 6.7).
D. Thắc mắc #4. Sao chúng ta phải ly dị chứ – Hãy minh chứng cuộc hôn nhân của quí vị đi?
1. Hãy cất bỏ chữ "ly dị" ra khỏi quyển tự điển hôn nhân của quí vị đi.
2. Hãy giải quyết cơn giận (Êphêsô 4.26).
3. Hãy gieo ra sự thân mật (chạm đến, ôm hôn, gây dựng).
4. Hãy thực hành sự vô kỷ chớ đừng làm ra sự ích kỷ.
5. Hãy thể hiện ra cái tôi có giá trị, chớ đừng lộ ra cái tôi vô giá trị.
6. Hãy học tha thứ.
***


Bài 69: Mathiơ 18:21-35: "Tha Thứ Cho Con Cái Đức Chúa Trời"


MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Tha thứ cho con cái Đức Chúa Trời
Mathiơ 18:21-35

1. Tuần nầy, tôi có đọc về một vị Mục sư đến giảng cho một nhóm được chọn học về đề tài hôn nhân. Ông hỏi lớp học: "Có ai trong quí vị biết Đức Chúa Trời nói gì về hôn nhân không?" Ngay lập tức một cậu bé giơ tay vẫy tới vẫy lui cho tới khi vị Mục sư gọi đến nó. Ông hỏi: “Nào, Đức Chúa Trời nói gì về hôn nhân?” Cậu bé đáp ngay: "Xin Cha tha thứ cho họ vì họ không biết mình làm điều gì". Tôi tưởng rằng câu nói ấy đã dạy cho chúng ta đôi điều về hôn nhân sự tha thứ!
2. Không một điều gì thường hay có trong bổn tánh của Đức Chúa Trời cho bằng sự tha thứ. Không một điều gì xa lạ đối với bổn tánh của con người cho bằng sự tha thứ. Vua Louis XII của nước Pháp từng lưu ý: "Không một mùi gì ngửi dễ chịu cho bằng thi hài đã chết của kẻ thù mình ".
3. Khi Chúa Jêsus chú về đời sống của một người, Ngài bắt đầu dời đi tội lỗi rồi thay thế nó bằng sự công bình. Ngài cất bỏ sự giận dữ, thù hận, cay đắng rồi dựng lên ân điển và sự tha thứ.
A. Bổn tánh của Chúa Jêsus có thể được thấy trong lời lẽ của Ngài trên thập tự giá. Sau khi bị đánh đòn, bị thử thách, bị khạc nhổ rồi bị đóng đinh trên thập tự giá, Ngài đã cầu nguyện: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì" (Luca 23:34).
B. Êtiên, người tuận đạo đầu tiên của Hội Thánh đã noi theo gương của Chúa Jêsus. Khi ông bị ném đá cho tới chết, ông đã kêu lên: "Lạy Chúa, xin đừng đổ tội nầy trên họ" (Công Vụ các Sứ Đồ 7:60).
C. Sau khi Giacốp qua đời, các anh của Giôsép e sợ ông sẽ báo thù vì họ đã bán ông làm nô lệ, Giôsép đã nói: "Các anh đừng sợ chi, vì tôi há thay mặt Đức Chúa Trời sao? Các anh toan hại tôi, nhưng Đức Chúa Trời lại toan làm điều ích cho tôi, hầu cho cứu sự sống cho nhiều người, y như đã xảy đến ngày nay, và giữ gìn sự sống của dân sự đông đảo. Vậy, đừng sợ, tôi sẽ cấp dưỡng các anh và con cái các anh. Đoạn, Giô-sép an ủi các anh, và lấy lời êm dịu mà nói cùng họ" (Sáng thế ký 50:19-21).
D. Mặc dù Vua Saulơ thường hay tìm cách giết David, người vừa lòng Đức Chúa Trời đã từ chối không thực hiện sự báo thù. Ông đã nói trong I Samuên 24:12: "Đức Giê-hô-va sẽ đoán xét cha và tôi. Đức Giê-hô-va sẽ báo thù cha cho tôi, nhưng tôi không tra tay vào mình cha".
E. Êphêsô 4:32 chép: "Hãy ở với nhau cách nhân từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy".
F. Côlôse 3:13 cho chúng ta biết phải "nhường nhịn nhau và tha thứ nhau: như Chúa đã tha thứ anh em thể nào, thì anh em cũng phải tha thứ thể ấy".
4. Tha thứ là một sự ban hiến và tạo ra lối thoát. Tội lỗi xây các bức tường giữa chúng ta và sự tha thứ đánh hạ chúng xuống. Tội lỗi tạo ra những đường nứt lớn phân chia chúng ta, còn tha thứ bắc các nhịp cầu ngang qua chúng. Tha thứ rất quan trọng cho sức khoẻ và cho sự hiệp một của Hội Thánh.
Không bao lâu trước khi bà qua đời vào năm 1988, trong một phút đứng trước vô tuyến truyền hình, Marghanita Laski, một trong những tiểu thuyết gia và nghiên cứu sinh nổi tiếng, đã nói: "Cái điều tôi ganh tỵ về các bạn, những Cơ đốc nhân, là sự tha thứ của các bạn; tôi chẳng có ai tha thứ cho tôi hết" (John Stott, The Contemporary Christian).
5. Phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta được thấy ở giữa sự dạy của Chúa Jêsus về con cái của Đức Chúa Trời. Chúa Jêsus gọi một "đứa trẻ" và có lẽ đang bồng nó bên hông Ngài "ở giữa" các môn đồ. Ngài dạy rằng trừ phi chúng ta trở nên giống như "những đứa trẻ" chúng ta sẽ không có cách gì để vào trong nước trời được (câu 3). Ngài dạy rằng người nào "trở nên khiêm nhường như đứa trẻ nầy""lớn hơn hết trong nước thiên đàng". Trong các câu 6-9, Chúa Jêsus phán về sự bảo hộ "những đứa trẻ nầy", là con cái thuộc linh của Đức Chúa Trời. Trong các câu 10-14, Chúa Jêsus dạy rằng chúng ta đừng "khinh dể" chúng, mà phải chăm sóc chúng. Trong các câu 15-20, chúng ta được truyền cho phải kỷ luật con cái của Đức Chúa Trời. Giờ đây Chúa Jêsus hướng trọng tâm vào sự tha thứ.
I. Một câu hỏi về sự tha thứ (các câu 21-22).
A. Thắc mắc của Phierơ. Giới hạn của sự tha thứ (câu 21).
1. Chúng ta hãy đọc: "anh em ngươi phạm tội cùng ngươi" và quí vị "hãy trách người khi chỉ có ngươi với một mình người" theo như Chúa Jêsus truyền dạy ở trong câu 15. Chúng ta hãy đọc rằng nếu như người "nghe lời". Người xưng tội rồi cầu xin sự tha thứ. Ngay lập tức quí vị chấp nhận tha thứ. Quí vị cùng cầu nguyện, khóc lóc và ôm hôn. Bức tường phân cách bị nứt vỡ ra. Một nhịp cầu ân điển đã bắc ngang qua đường nứt mích lòng. Quí vị đã "được lại người". Bây giờ chúng ta hãy đọc sáu tuần lễ sau đó "nếu anh em tôi phạm tội cùng tôi" một lần nữa… cùng một bài ca, câu thứ hai. Quí vị sẽ làm gì?
2. Phierơ có cùng tư tưởng khi ông hỏi: "Thưa Chúa, nếu anh em tôi phạm tội cùng tôi, thì sẽ tha cho họ mấy lần?" Phierơ có một thói quen đưa ra những thắc mắc như thế.
3. Ông biết rằng người ta thường phạm tội, tiếp nhận sự tha thứ và trong vòng một thời gian ngắn lại sa vào tội ấy hoặc tệ hại hơn.
4. Ông lấy làm lạ khi thấy tiến trình nầy cứ tiếp diễn hoài. Dòng thắc mắc sau cùng là tha cho họ mấy lần?
5. Các rabi Do thái theo truyền khẩu dạy rằng tha thứ đáng được chấp nhận là ba lần dành cho kẻ vi phạm….câu nói xưa về chương trình "sau ba thoi thì bạn có quyền đánh trả lại" theo lẽ công bình ngày nay. Câu nầy chiếu theo cơ sở có ở Gióp 33:29: "Kìa, các việc ấy Đức Chúa Trời làm cho loài người; Đến hai lần, hoặc ba lần" và Amốt 1.
6. Có bao nhiêu người trong chúng ta sẽ tha thứ 7 lần cho một kẻ vi phạm? Hầu hết chúng ta đều vật vã ở hai hay ba lần mà thôi!
Rabi David A. Nelson thích thuật lại câu chuyện kể về hai anh em, họ đi đến gặp rabi của họ để định liệu một cuộc tranh chấp kéo dài. Vị rabi đưa cả hai đến chỗ làm cho mọi dị biệt của họ được hoà lại rồi bắt tay nhau. Khi họ sắp sửa ra về, ông hỏi từng người có muốn đưa ra lời chúc vào dịp đầu năm mới hay không!?! Người anh quay sang em mình nói: "Anh chúc em những điều mà em sẽ chúc cho anh". Khi đó, người em rút tay mình lại rồi nói: "Rabi ơi, hãy xem, anh ấy lại khởi sự chứng nữa rồi!"
7. Chúa Jêsus đã có một ảnh hưởng trên Phierơ. Ân điển thiêng liêng vốn đã cọ xát trên ông. Trong lý trí của Phierơ, ông vốn hồ nghi giới hạn tha thứ của các rabi và thậm chí thêm số lượng đáng kể vào nữa.
8. Có lẽ đây là chỗ kiêu ngạo tự phát của ông, sau khi suy nghĩ trong lòng rằng mình là người cao thượng khi ông đưa ra thắc mắc nầy. Có lẽ ông tưởng Chúa Jêsus có ấn tượng trước thái độ giàu ơn của ông. Chúng ta sẽ học biết rằng ơn được đong đếm thì chẳng phải là ơn chi cả.
B. Câu trả lời của Chúa Jêsus. Tầm cỡ của sự tha thứ (câu 22).
1. Chúa Jêsus đã bật cười khi Ngài phán: "Ta không nói cùng ngươi rằng: đến bảy lần đâu, nhưng đến bảy mươi lần bảy". Phierơ đã bị thổi tung đi!
2. Phierơ đã suy nghĩ tới các giới hạn của luật pháp, chớ không phải của ân điển. Luật pháp đang đong đếm. Luật pháp đo lường. Luật pháp giữ các thành tích rất chi tiết. Ân điển thì không như thế đâu. Bản chất của ân điển là không đo đếm và chẳng có ai xứng đáng được nó. Theo cách nói của Spurgeon: "Thương xót đo được không còn là thương xót nữa".
3. Ân điển không có một giới hạn nào hết. Nếu chúng ta tính toán theo giới hạn, chúng ta đang đánh mất ân điển. Khi Chúa Jêsus phán "bảy mươi lần bảy" Ngài không có ý nói bốn trăm chín mươi đâu. Ngài đang sử dụng một lối nói ẩn dụ bảy mươi bảy lần mười ám chỉ rằng chúng ta cần phải tiếp tục tha thứ mà chẳng có giới hạn nào hết.
4. Dường như Chúa Jêsus phán: "Nầy Phierơ, quan niệm tha thứ của ngươi rất rộng rãi theo tiêu chuẩn của truyền khẩu. Tuy nhiên, sự tha thứ của ngươi lại rất bủn xỉn theo tiêu chuẩn của ân điển".
5. Tình yêu của Đức Chúa Trời được mô tả theo từ ngữ Hy lạp agape’. Chúng ta không có một từ Anh ngữ tương đương nào để mô tả tình yêu tự hiến nầy, một tình yêu không có giới hạn nào hết. Về sau trong Giăng 21:16, Chúa Jêsus đã hỏi Phierơ: "Hỡi Simôn, con Giôna, ngươi yêu ta chăng?" Thực ra, Ngài đã hỏi: "Hỡi Phierơ, tình yêu ngươi có những giới hạn nào dành cho ta không?"
6. Chúng ta cần phải tỏ ra tình yêu của Chúa, tình yêu agape’ , tình yêu không giới hạn. Tình yêu nầy được thấy rõ qua sự tha thứ không giới hạn.
7. Hãy nhớ tình yêu nầy đã được dạy trong phạm trù mối tương giao của chúng ta là con cái của Đức Chúa Trời hay những "con trẻ" của Ngài. Tha thứ cho con cái là điều rất dễ dàng. Là cha mẹ, chúng ta hết lòng yêu thương con cái mình. Chúng ta biết chúng chưa chín chắn và chưa có kinh nghiệm. Chúng ta cho rằng chúng đôi lúc vô lễ và thiếu suy nghĩ. Chúng ta biết đấy là một phần trong sự lớn lên. Chúng ta kỷ luật chúng nhưng chúng ta luôn luôn tha thứ cho chúng vì chúng thuộc về chúng ta.
8. Chúa mong muốn chúng ta phải có cùng thái độ ấy khi "anh em tôi phạm tội". Vì người ấy là một "anh em", người ấy là con cái của Đức Chúa Trời. Người cha có sự tha thứ không giới hạn đối với con ấy.
9. Một lần nữa, Êphêsô 4:32 chép: "Hãy ở với nhau cách nhân từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy".
10. Câu nói quyết định theo ý kiến của tôi là Rôma 5:20: "nhưng nơi nào tội lỗi đã gia thêm, thì ân điển lại càng dư dật hơn nữa". Nếu chúng ta sống giống như Đấng Christ, chúng ta sẽ không để cho tội lỗi của người anh em kia vượt quá ơn của chúng ta.
11. Nếu tôi đã học được một điều trong cách ăn ở cá nhân của tôi với Đấng Christ, thì đó là bám cho thật sát. Giống như mối tương giao theo đường hàng ngang của tôi nương vào mối tương giao theo đường thẳng đứng, mối tương giao theo đường thẳng đứng của tôi với Đức Chúa Trời có thể bị ngăn trở bởi mối tương giao theo đường hàng ngang với các tín hữu khác.
II. Một minh họa của sự tha thứ (các câu 23-35).
A. Lòng thương xót của nhà Vua (các câu 23-27).
1. Để giúp cho Phierơ và những người khác hiểu rõ hơn ơn tha thứ Chúa Jêsus chia sẻ một thí dụ, một câu chuyện phổ thông với một sứ điệp đời đời.
2. Ngài mô tả cho họ thấy "nước thiên đàng". Trong nước của một "vua kia". Tất nhiên trong ẩn dụ nầy vua kia chẳng ai khác hơn là Đức Chúa Cha.
3. Nhà vua muốn "tính sổ" với các tôi tớ mình. Ông muốn triệu tập mọi thứ thuộc về mình. "Đầy tớ" ở đây là một từ phổ thông đề cập tới mọi người dưới quyền của mình.
4. Khi nhà vua bắt đầu "tính sổ" "một" tên đầy tớ đặc biệt được mang đến trước mặt người. Tên nầy mắc nợ nhà vua "một vạn talâng".
5. Có lẽ tên đầy tớ nầy là một người có trách nhiệm rất cao ở trong nước. Có thể hắn là một nhân viên thu thuế, hắn mắc nợ nhà vua vì các thứ thuế phải thu.
6. Hắn mắc nợ "một vạn talâng". Cụm từ nầy ra từ chữ murias là chữ số cao nhất trong tiếng Hy lạp, một con số vô hạn, không đếm được đôi khi được dịch là "myriads" (mười nghìn).
7. Đây là một món nợ không tính được và không trả nổi. Nó tiêu biểu cho món nợ tội của từng người. Chúng ta không thể trả được món nợ đó. David đã nói trong Thi thiên 51:4: "Tôi đã phạm tội cùng Chúa, chỉ cùng một mình Chúa thôi, và làm điều ác trước mặt Chúa; Hầu cho Chúa được xưng công bình khi Chúa phán, và được thanh sạch khi Chúa xét đoán".
8. Bản án chung nhất, ấy là người bị "bán" như một nô lệ cùng với "vợ con người". Dĩ nhiên, điều nầy tiêu biểu cho địa ngục, án phạt đời đời.
9. Nhà vua tiêu biểu cho Đức Chúa Trời. Tên đầy tớ tiêu biểu cho người không tin Chúa và món nợ không tính được kia tiêu biểu cho tội lỗi của chúng ta.
10. Hãy lưu ý rằng tên đầy tớ "sấp mình xuống" rồi đau khổ kêu van: "Thưa chủ, xin giãn cho tôi, thì tôi sẽ trả hết!" Hy vọng duy nhất của con người là "sấp mình xuống" trước mặt Đức Chúa Trời và nài xin ơn thương xót.
11. Nhà vua vốn biết rõ tên đầy tớ sẽ không thể trả nổi món nợ và "động lòng thương xót thả người về" rồi "tha nợ cho". Cũng một thể ấy khi chúng ta xưng tội mình và cầu xin sự tha thứ, Đức Chúa Trời "là Đấng giàu lòng thương xót, vì cớ lòng yêu thương lớn Ngài đem mà yêu chúng ta" (Êphêsô 2:4) "thả người về" rồi "tha nợ cho" chúng ta về tội lỗi. Ngài buông tha cho chúng ta được tự do! Có còn nhớ giây phút ấy không?!!!
B. Tánh ác độc của tên đầy tớ (các câu 28-30).
1. Dường như không bao lâu sau khi hắn ta đã được tha, tên đầy tớ ấy "gặp một người trong bạn làm việc, có thiếu mình một trăm đơ-ni-ê" (khoảng tiền 100 ngày công). Hắn "nắm bóp cổ bạn!" rồi đòi trả nợ.
2. Người nầy đã được tha một món nợ không thể tưởng tượng được giờ đây đã trổ bạo lực đòi trả một món nợ nhỏ.
3. Tên đầy tớ thứ hai cũng "nài xin" được thương xót. Hãy chú ý hắn hay sử dụng cùng những từ ngữ mà tên đầy tớ thứ nhứt đã nói với nhà vua (hãy so sánh các câu 26, 29).
4. Chỉ vô ích thôi cho án phạt hắn bị ném vào “nhà tù” của chủ nợ.
5. Nhờ huyết của thập tự giá Ngài, Chúa Jêsus đã trả món nợ tội của chúng ta. "Tôi mắc một món nợ mà tôi không thể trả, Ngài đã trả một món nợ mà Ngài không mắc". Tuy nhiên, khi chúng ta đặt một giới hạn cho sự tha thứ, khi chúng ta từ chối ban ra ân điển cách liên tục, chúng ta đang sống giống như tên đầy tớ gian ác nầy.
6. Nếu Đức Chúa Trời trong ân điển của Ngài đã tha thứ cho chúng ta cả một đời tội lỗi, chúng ta là ai mà cầm giữ sự tha thứ lại vì những sai phạm nhỏ nhoi? Lẽ nào chúng ta dám đặt một giới hạn lên ân điển sao?
C. Sự phán xét của nhà Vua (các câu 31-34).
1. "Các bạn… buồn lắm". Khi chúng ta thất bại không ưng ban ra sự tha thứ, chúng ta đang làm tổn thương mọi người ở chung quanh chúng ta.
2. Họ "đến thuật lại cùng chủ mình mọi điều đã xảy ra". Chúng ta đang tự dối mình nếu chúng ta nghĩ Đức Chúa Trời không để ý tới sự chúng ta thiếu sót ơn tha thứ.
3. Nhà vua cho đòi tên đầy tớ gian ác đến quở trách. Vua gọi hắn là "đầy tớ độc ác". Ông ao ước tên đầy tớ nầy tha thứ giống như mình đã tha thứ vậy (câu 33).
4. Vì lẽ đó vua đã "phú nó… cho kẻ giữ ngục" cho tới chừng nào nó "trả xong hết nợ".
5. Một số giáo sư Kinh Thánh cho rằng điều nầy có nghĩa là tên đầy tớ phải quay trở lại với món nợ nguyên thuỷ của mình. Nếu thực như thế, thì ơn cứu rỗi chỉ là thời gian hay ơn tha thứ của Đức Chúa Trời là ơn có điều kiện. Tôi không chấp nhận như thế. Đây là phần kỷ luật của Đức Chúa Trời.
D. Nguyên tắc của sự tha thứ (câu 35).
Chúa Jêsus đã phán "Nếu mỗi người trong các ngươi không hết lòng tha lỗi cho anh em mình, thì Cha ta ở trên trời cũng sẽ xử với các ngươi như vậy". Đức Chúa Trời sẽ tỏ ra kỷ luật trên đời sống chúng ta nếu chúng ta thất bại không biết tha thứ.
Các chuyến bay của những nhà dịch thuật Kinh Thánh đã bay trên hàng ngàn giờ trong 25 năm mà không có một tai nạn rủi ro nào trước ngày 7 tháng 4 năm 1972. Vào ngày ấy, một chiếc Piper Aztec đã chết máy và rơi ở Papua New Guinea, làm chết tất cả 7 người. Chiếc máy bay vừa nhận được một cuộc kiểm tra 100 giờ. Thợ cơ khí đã rà soát lại trong trí mình từng bước mà ông đã thực hiện khi kiểm tra máy móc chiếc máy bay đó. Với sự hoảng hốt ông ta nhớ rằng mình đã bị chận ngang khi siết chặt ống xăng và không trở lại hoàn tất được việc ấy! Lỗi lầm của ông đã nghiền nát ông. Ông không biết phải làm gì đây!?! Chẳng ai đến an ủi ông. Sau cùng ông đến với gia đình viên phi công Doug Hunt. Ông chỉ có thể nói được ít lời mà thôi, ông nói: "Đây, bàn tay nầy đã cướp đi mạng sống của Doug". Glennis Hunt, vợ goá của Doug, đã ôm chầm lấy ông. Về sau ông viết: "Glennis đến ngồi bên cạnh tôi rồi nắm lấy bàn tay đã cướp mất mạng sống của chồng bà ấy, và viên phi công khác đến ngồi phía bên nầy tôi với một thái độ bày tỏ ra tình yêu thương, yên ủi và tha thứ. Đó là bước đầu tiên rất có ý nghĩa trong quá trình chữa lành" (Max Lucado, God Came Near, 1987, p. 101).

***