MATHIƠ – VUA CÁC VUA
SỨ ĐIỆP CỦA NHÀ VUA
PHƯỚC CHO
NHỮNG KẺ NHU MÌ
Mathiơ 5.5
1. Xã
hội chúng ta xem thường những ai có tánh nhu mì. Tôi nhớ khi còn nhỏ đang đọc
trong một tấm biển quảng cáo sau bìa của loại sách báo hài. Luôn luôn có hình
vẽ một gã gầy nhom đứng bên bờ biển với cát dính đầy mặt. Sau khi Trường
Charles Atlas đã dạy hắn rèn luyện thân thể, hắn có thể làm cho kẻ bắt nạt hắn
phải bỏ đi. Mỗi đứa trẻ trong nước Mỹ đều ghét cái gã gầy nhom hiền từ kia và
đã tán thưởng kẻ biết rèn luyện thân thể ấy. Chẳng một người nào là hiền lành
hết. Đấy là lý do tại sao lời phán của Chúa Jêsus: “Phước cho những kẻ
nhu mì” dường
như rất xa lạ đối với chúng ta.
2. Lời phán nầy cũng rất xa lạ
đối với khán giả của Ngài trong thế kỷ đầu tiên. Họ đã xem thường tình trạng
hiền lành. Họ là những người Dothái kiêu căng, con cháu của Ápraham, là tuyển
dân của Đức Chúa Trời. Họ mong đợi một Đấng Mêsi đầy quyền lực, là Đấng sẽ cất
bỏ cái ách nô lệ của người La mã và giúp họ “hưởng
đất làm cơ nghiệp”.
3. Có những nhóm người Dothái
khác nhau trông mong các loại Đấng Mêsi khác nhau.
A.
NGƯỜI PHARISI là
những người chạy theo truyền khẩu. Họ nghĩ Ngài sẽ đến giống như Môise với dịch
lệ và các phép lạ giống như chia Biển Đỏ ra làm hai vậy.
B. NGƯỜI SAĐUSÊ là hạng người theo chủ nghĩa
đổi mới. Họ mong đợi một cấp lãnh đạo năng nổ về chính trị, là người sẽ dùng sự
khôn ngoan và ảnh hưởng tuyệt đối mà giải cứu họ.
C. HẠNG NGƯỜI QUÁ KHÍCH là các nhà hoạt động chính trị.
Họ trông đợi một Đấng Mêsi quân sự, một Tướng lãnh giống như Giôsuê.
4. Đấng
Mêsi thật không phải là Đấng giống như vừa nêu ở trên. Nếu họ đã đọc sách Êsai,
họ đều biết rằng Ngài là một Cứu Chúa chịu thương khó. Ngài dịu dàng và nhu mì.
Êsai 42.3 chép về Ngài như sau: “Người
sẽ chẳng bẻ cây sậy đã giập, và chẳng dụt tim đèn còn hơi cháy”. Chúa
Jêsus đã nói về chính mình Ngài ở Mathiơ 11.29: “Ta có lòng nhu mì,
khiêm nhường”. Khi Ngài đến và đã phán: “Phước cho những kẻ
nhu mì”, họ đã chối bỏ Ngài. Họ không muốn có một Đấng Mêsi nhu mì.
Ngài là một sự thất vọng hoàn toàn.
5. Chúa Jêsus đã và đang là Đức
Chúa Trời toàn năng, toàn tri. Ngài là Đấng đã phán thì vũ trụ thành hình, lại
đã đến như một con người hiền lành, nhu mì, Ngài là tấm gương trọn vẹn về tánh
nhu mì.
I. Ý
NGHĨA CỦA SỰ NHU MÌ.
A. Định nghĩa CƠ BẢN.
1. Trong xã hội chúng ta, “nhu mì” được hiểu là một sự yếu đuối,
ẻo lả, không vững chắc, bấp bênh hoặc thậm chí nhu nhược như đàn bà. Tự điển
Webster định nghĩa từ ngữ nầy là “thiếu
can đảm và hèn nhát, không cứng rắn hay mạnh mẽ”. Hãy
tưởng tượng một nhân viên quản lý nói với các nhân viên đứng bán hàng rằng: “Bây giờ hãy đứng tại
cửa hàng và phải nhu mì với khách hàng của quý vị”.
2. Chữ “nhu mì” trong Kinh Thánh ra từ chữ Hy
lạp praos, có nghĩa là “dịu
dàng, khiêm nhường hay tử tế”. Tiếng Hy lạp cổ điển sử dụng
từ nầy theo nhiều cách khác nhau:
a. Nhu mì có ý mô tả một loại
thuốc dễ chịu.
b. Nhu mì có ý nói tới một cơn
gió nhẹ.
c. Nhu mì có ý nói tới một sợi
dây thừng bị sút rời ra và có ích lợi.
d. Nhu mì có ý nói tới người
biết đối xử với người khác bằng sự tôn trọng, kính nể, lễ độ, và nhã nhặn.
e. Trong một tác phẩm của
Plato, một đứa trẻ yêu cầu vị y sĩ phải “nhẹ
nhàng” với nó.
Cũng chính là từ ngữ nầy.
B. Định nghĩa theo VĂN MẠCH.
+ Chỉ biết qua phần định nghĩa
cơ bản thôi thì chưa đủ, chúng ta cần phải biết từ ngữ nầy được sử dụng như thế
nào torng văn mạch của Các Phước Lành.
1. Nhu
mì giống với “có
lòng khó khăn”. Cả hai đều là đặc điểm chính nói tới sự khiêm
nhường.
2. “Có lòng khó khăn” nghĩa
là chúng ta tập trung vào sự nghèo khó về mặt thuộc linh của chúng ta. Chúng ta
hiểu rõ tình trạng tội lỗi của mình. sự hiểu biết đó khiến cho chúng ta phải
khiêm nhường. “Nhu
mì” có
nghĩa là chúng ta tập trung vào sự thánh khiết và quyền phép của Đức Chúa Trời,
điều nầy cũng khiến cho chúng ta phải hạ mình xuống.
3. Chúng ta có thể nhìn thấy
một chuỗi logic trong các Phước Lành. Khi một người “có lòng khó khăn” (Phước
lành 1) thì
người sẽ “than
khóc” (Phước
lành 2) về tội
lỗi mình và được “yên
ủi” bởi ân
điển và sự tha thứ của Đức Chúa Trời. Khi một người trở nên “nhu mì” (Phước
lành 3) do công
nhận sự thánh khiết và qyền phép của Đức Chúa Trời, người ấy sẽ “đói khát sự công
bình” (Phước
lành 4).
C. Nhu mì là chương trình của
Đức Chúa Trời dưới GIAO ƯỚC CŨ.
1. Gióp đã nói Đức Chúa Trời: “Nhắc lên cao những kẻ
bị hạ xuống, Và cứu đỡ những người buồn thảm cho được phước hạnh” (5.11).
2. Dân số ký 12.3 chép: “Vả, Môi-se là người
rất khiêm hòa hơn mọi người trên thế gian”.
3. Thi thiên 25.9 chép: “Ngài sẽ dẫn kẻ hiền
từ cách chánh trực, Chỉ dạy con đường Ngài cho người nhu mì”.
4. Thi thiên 147.6 chép: “Đức Giê-hô-va nâng đỡ
người khiêm nhường, Đánh đổ kẻ ác xuống đất”.
5. Êsai 29.19 chép: “Những người nhu mì
cũng sẽ được thêm sự vui vẻ trong Đức Giê-hô-va”.
D. Nhu mì là chương trình của
Đức Chúa Trời trong GIAO ƯỚC MỚI.
1. Trong Êphêsô 4.1-2, Phaolô
nói: “Vậy,
tôi… khuyên anh em phải ăn ở một cách xứng đáng với chức phận mà Chúa đã gọi
anh em, phải khiêm nhường đến điều, mềm mại đến điều, phải nhịn nhục, lấy lòng
thương yêu mà chìu nhau”.
2. Ông đã nói trong Côlôse
3.12: “Vậy
anh em là kẻ chọn lựa của Đức Chúa Trời, là người thánh và rất yêu dấu của
Ngài, hãy có lòng thương xót. Hãy mặc lấy sự nhân từ, khiêm nhường, mềm mại,
nhịn nhục”.
3. Ông nhắc cho Tít nhớ: “chớ nói xấu ai, chớ
tranh cạnh, hãy dong thứ, đối với mọi người tỏ ra một cách mềm mại trọn vẹn” (Tít
3.1-2).
E.
NHỮNG SỰ HIỂU SAI về nhu mì.
1. Nhu mì không phải là YẾU ĐUỐI. Từ
ngữ nói tới yếu đuối đã được người ta sử dụng trong văn chương ngoài Kinh Thánh
để nói đến một con ngựa đã được thuần hoá. Vì cớ đó, mới có quan điểm: “chịu dưới quyền điều
khiển”.
a. Một con ngựa đã được thuần
hoá rất hữu dụng và an toàn. Tuy nhiên, một con ngựa không thể điểu khiển được
thì vô dụng và rất nguy hiểm.
b. Một phương thuốc có khả năng
chế ngự sẽ đem lại sự chữa lành. Dù vậy một phương thuốc không chế ngự được sẽ
giết chết người.
c. Một ngọn gió thổi với tốc độ
vừa phải rất có ích lợi cho việc bơm nước và cung cấp năng lượng. Một ngọn gió
không chế ngự được sẽ là ngọn gió mang tính huỷ diệt.
d. Người nào có thể kiềm chế
lời nói của mình là người có lòng can đảm và biết tiết độ. Người nào không kềm
chế được sẽ gây ra lắm thiệt hại.
e. Có người nói: “Nếu bạn nghĩ nhu mì
là yếu đuối, hãy thử làm người nhu mì trong một tuần lễ xem sao!”.
2. Nhu mì không phải là HÈN NHÁT.
a. Có người tin rằng “đưa má bên kia” (câu
39) là một
hành động hèn nhát.
b. Chúa Jêsus là con người can
đảm nhất đã từng sinh sống. Ngài đã đối diện với mọi tội lỗi độc địa nhất, địa
ngục và sự chết trên thập tự giá.
c. Mặc dù Ngài không hề tự biện
hộ cho mình, Ngài rất mau mắn biện hộ cho người khác. Ngài đã dùng chiếc roi da
đánh đuổi những kẻ đổi bạc!
d. Một Cơ đốc nhân trưởng thành
đã chết bản ngã và vì thế sẽ không lo lắng gì về sự tổn thương, lăng nhục, hay
bị thua thiệt.
3. Nhu mì không phải là TẾ NHỊ THEO CON NGƯỜI.
a. Ấy chẳng phải là thiếu lòng
tin hay thiếu lễ độ, nhưng một người công bình phải biết kính sợ Chúa và tôn
trọng người khác.
b. I Phierơ 2.22-23 nhắc cho
chúng ta nhớ tới tấm gương của Chúa Jêsus: “Ngài
chưa hề phạm tội, trong miệng Ngài không thấy có chút chi dối trá; Ngài bị rủa
mà chẳng rủa lại, chịu nạn mà không hề hăm dọa, nhưng cứ phó mình cho Đấng xử
đoán công bình; Ngài gánh tội lỗi chúng ta trong thân thể Ngài trên cây gỗ, hầu
cho chúng ta là kẻ đã chết về tội lỗi, được sống cho sự công bình; lại nhân
những lằn đòn của Ngài mà anh em đã được lành bịnh”.
II. CÁC
TẤM GƯƠNG VỀ SỰ NHU MÌ.
A. ÁPRAHAM (Sáng thế ký 13.5-12).
1. Sau khi Đức Chúa Trời đưa
Ápraham cùng gia đình ông vào xứ Canaan . Một
cuộc tranh cãi nổi lên giữa các tôi tớ của Ápraham và tôi tớ của cháu ông là
Lót về các quyền lợi, về đồng cỏ cho gia súc ăn.
2. Đức
Chúa Trời đã ban hết xứ cho Ápraham. Ông là người của Đức Chúa Trời với giao
ước của Đức Chúa Trời. Lót chỉ là người cháu hư hỏng, là người nương cậy mọi sự
vào Ápraham. Ápraham là bác của Lót và là bậc trưởng thượng của ông ta.
3. Ápraham có thể nói: “Hãy nghe đây, cháu là
kẻ ăn bám ta, cháu quá tự phụ, cháu nên chăn thả súc vật chỗ nào ta bảo cháu
thôi”.
4. Tuy nhiên, Ápraham lại bằng
lòng nhường mọi quyền lợi của mình vì cớ đứa cháu, vì cớ sự hoà thuận, và vì cớ
sự làm chứng của họ.
5. Ápraham vốn có quyền làm bất
cứ điều chi ông muốn. Tuy nhiên quyền hạn đó đã được ông kềm giữ lại. Với sự
khiêm hoà, ông đã từ khước mọi quyền hạn của mình.
B. GIÔSÉP (Sáng
thế ký 45.5, 8; 50.19-20).
1. Giôsép đã bị các anh mình
bán sang Aicập làm nô lệ. Trải qua thời gian, Đức Chúa Trời đã thăng cấp cho
Giôsép từ nô lệ lên làm Thủ Tướng cai quản khắp cả Aicập.
2. Khi các anh đến với Giôsép
để mua lúa ăn, ông có thể giết chết họ hoặc bắt họ làm nô lệ. Thay vì thế, “Người cất tiếng lên
khóc; dân Ê-díp-tô nghe và nhà Pha-ra-ôn nghe nữa” (Sáng
thế ký 45.2).
3. Ông
đã bày tỏ chính mình ra cho các anh thấy rồi tỏ lòng thương xót họ (Sáng
thế ký 45.5, 8; 50.19-20).
4. Trong sự nhu mì, Giôsép vốn
biết Đức Chúa Trời đã đặt ông vào chỗ xét đoán.
C. MÔISE (Sáng
thế ký 12.3).
1. Chúng ta đã biết rồi, Môise “là người rất khiêm
hoà hơn mọi người trên thế gian”.
2. Tuy nhiên, hãy nhớ chính
Môise là người đã nổi giận vì sự ngược đãi dân Hêbơrơ, nên mới giết chết một
đốc công người Aicập (Xuất Êdíptô ký 2.11-12).
3. Chính Môise là người đã đập
vỡ nát hai bảng đá luật pháp đầu tiên khi ông nhìn thấy dân sự say sưa đang
nhảy múa quanh con bò con vàng.
4. Trong Xuất Êdíptô ký 3 khi
Đức Chúa Trời kêu gọi Môise trở thành đấng giải cứu cho Ngài, Môise đã nói rằng
ông không thể làm nổi việc đó và ông không phải là một tay nói giỏi.
5. Môise vốn nhu mì và hạ mình
không phải vì ông yếu đuối đâu, ông sẽ biện hộ cho bất cứ ai trước mặt Đức Chúa
Trời, nhưng ông không tự biện hộ mình trước mặt Đức Chúa Trời.
D. ĐAVÍT (I
Samuên 24.5-7; II Samuên 16.5-12).
1. Đức Chúa Trời đã chọn Đavít
thay thế cho vua Saulơ. Vì điều nầy Saulơ đã thù ghét Đavít, nên đã dẫn quân
truy đuổi và tìm giết Đavít.
2. Đavít có một cơ hội để giết
chết Saulơ khi Saulơ vào trong hang động Ênghêđi để đi tiện. Người của Đavít đã
hành động giống như họ tung hô khích lệ ông bước tới giết Saulơ ngay giây phút
cơ hội ấy. Thay vì thế, ông “cắt
trộm vạt áo tơi của vua”.
3. Tuy nhiên, vì cớ tánh nhu
mì, “lòng
người tự trách về điều mình đã cắt vạt áo tơi của vua”. Ông
đã ngăn trở người của mình (các câu 5-7).
4. Ở một trường hợp khác, rất
lâu về sau khi Đavít đã lên làm vua, con trai ruột ông là Ápsôlôm đã mưu nghịch
ông rất thành công và trục xuất ông ra khỏi Jêrusalem.
5. Một trong các người thân của
Saulơ – Simêi đã công khai rủa sả Đavít và ném đá vào người ông. Một trong
những người mạnh sức của Đavít đã thắc mắc: “Cớ
sao con chó chết kia dám mắng vua chúa tôi? Hãy để tôi đi chém đầu nó!”.
6. Đavít đã ngăn cản người đó
vì cớ sự nhu mì (các câu 10-12).
7. Ông là một chiến sĩ rất mạnh
sức chiến đấu cho Đức Chúa Trời, song ông không hề tự tôn hay bảo vệ mình.
E. PHAOLÔ (Philíp
3.3; 4.13).
1. Phaolô là người có học vấn
cao hơn hết trong các vị sứ đồ, thế mà ông là một người rất nhu mì. Ông đã nói
trong Philíp 3.3 rằng ông “chẳng
hề tin cậy vào xác thịt”.
2. Dù vậy, Phaolô có lòng tin
tưởng hoàn toàn vào Đức Chúa Trời. Trong 4.13, ông viết: “Tôi làm được mọi sự
nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi”.
F. CHÚA JÊSUS (Mathiơ 11.28-29; Philíp 2.5-8).
1. Dĩ nhiên Chúa Jêsus là tấm
gương quan trọng nhất về sự nhu mì. Ngài đã phán trong Mathiơ 11.28-29: “Hỡi những kẻ mệt mỏi
và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. Ta có lòng
nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của ta, và học theo ta; thì linh hồn
các ngươi sẽ được yên nghỉ”.
2. Có lẽ Philíp 2.5-8 là chỗ
nói tới sự hạ mình quan trọng nhất của Ngài.
III. KẾT
QUẢ CỦA SỰ NHU MÌ.
A. Kết quả CHUNG.
Chúa Jêsus phán rằng “kẻ có lòng nhu mì” sẽ được “phước”. Họ
biết rõ ơn phước và niềm vui mừng vì Đức Chúa Trời đã làm cho họ được vui mừng.
B. Kết quả ĐẶC BIỆT.
1. Chúa Jêsus phán “những kẻ nhu mì” được “phước” vì họ sẽ hưởng được đất. Từ “hưởng” có ý nói tới việc nhận lãnh
phần gia tài hay cơ nghiệp của một người. Đây là chỗ trưng dẫn trực tiếp Thi
thiên 37.11. 2. Chúng ta đã thấy được điểm tương đồng giữa việc làm “người
nhu mì” và việc “có lòng khó khăn”. Một
người phải nhìn nhận tình trạng nghèo khó thuộc linh của mình rồi với sự “nhu mì” tiếp
nhận Đấng Christ trước khi người được cứu. Cho nên chỉ có người “nhu mì” mới là người sẽ “hưởng được đất”.
3. Đức Chúa Trời bảo Ađam phải “quản trị” hay cai trị trên đất. Quyền hạn
và khả năng quản trị của ông đã được thiết lập kia không còn có hiệu lực nữa do
Sự Sa Ngã. Nhờ sự cứu rỗi Đức Chúa Trời phục hưng lại quyền quản trị của chúng
ta. Chúng ta sẽ “hưởng” lấy quyền ấy một ngày kia.
4. Xuyên suốt lịch sử, dân sự
của Đức Chúa Trời đã lấy làm ngạc nhiên nơi sự thịnh vượng của hạng người gian
ác. Hết thảy chúng ta đồng nói cùng với tác giả Thi thiên: “Vì khi tôi thấy sự
hưng thạnh của kẻ ác, Thì có lòng ganh ghét kẻ kiêu ngạo” (Thi
thiên 73.3). Chúng ta phải nhớ lời nói của một nhà truyền
đạo: “Không
thể như thế được mãi đâu!” Thi
thiên 37.10 chép: “Một
chút nữa kẻ ác không còn”. Trong kỷ nguyên của Nước Trời, dân sự của
Đức Chúa Trời “sẽ
đồng trị vì với Ngài trong một ngàn năm”.
5. Lời hứa về tương lai vinh
hiển của chúng ta cung ứng cho chúng ta niềm hy vọng và phước hạnh ngay bây
giờ! Người “nhu
mì” có thể
hưởng được đất ngay bây giờ trong những phương thức mà không một người chưa tin
Chúa nào có thể hiểu được. Hãy lắng nghe lời lẽ của Wade Robinson: Bầu trời
trên cao kia toàn màu xanh lơ, Xung quanh đất là màu xanh lá cây dịu dàng; Có
chi đó sống động trong từng màu sắc Đôi mắt của kẻ không biết Đấng Christ Không
hề thấy được! Loài chim hót lên mãi những bài ca vui sướng, Nhiều bông hoa khoe
sắc đẹp đậm đà, Từ khi tôi nhìn biết, như hiện nay tôi đang biết, Tôi thuộc về
Ngài và Ngài là của tôi.
IV. SỰ
CẦN THIẾT CỦA TÁNH NHU MÌ.
A. Nhu mì là cần thiết vì SỰ
CỨU RỖI cần có sự nhu mì.
Đối với một người muốn được
cứu, người ấy phải tự hạ mình xuống khiêm ty trước mặt Đức Chúa Trời. Khi các
môn đồ hỏi Chúa Jêsus xem ai là lớn nhất trong Nước Trời, Ngài “gọi một đứa trẻ đến,
để ở giữa môn đồ, mà phán rằng: quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi
không đổi lại và nên như đứa trẻ, thì chẳng được vào nước thiên đàng đâu. Vậy,
hễ ai trở nên khiêm nhường như đứa trẻ nầy, sẽ là lớn hơn hết trong nước thiên
đàng” (Mathiơ
18.2-4).
B. Nhu mì là cần thiết vì đây
là một MẠNG LỆNH theo Kinh Thánh.
1. Sôphôni 2.3 chép: “Hỡi các ngươi là mọi
kẻ nhu mì của đất, làm theo mạng lịnh của Chúa, hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va, tìm
kiếm sự công bình, tìm kiếm sự nhu mì, hoặc giả các ngươi sẽ được giấu kín
trong ngày thạnh nộ của Đức Giê-hô-va”.
2. Giacơ 1.21 chép: “Vậy, hãy bỏ đi mọi
điều ô uế, và mọi điều gian ác còn lại, đem lòng nhu mì nhận lấy lời đã trồng
trong anh em, là lời cứu được linh hồn của anh em”.
3. Người nào không có tánh nhu
mì không thể hiểu được cũng không thể áp dụng được Lời của Đức Chúa Trời.
C. Nhu mì là cần thiết vì đây
là một phần SỰ SỐNG CỦA ĐỨC TIN.
Chúa Jêsus đã sống nhu mì và
chúng ta không thể bắt chước Ngài nếu chúng ta sống tự phụ. D. Nhu mì là cần
thiết vì nhu mì DÂNG
SỰ VINH HIỂN CHO ĐỨC CHÚA TRỜI.
1. Bổn tánh của con người tìm
cách vinh hiển cho chính mình. Con người tin kính trong sự nhu mì dâng sự vinh
hiển cho Đức Chúa Trời.
2. Khi chúng ta tự hạ mình
xuống, thậm chí là với nhau, Đức Chúa Trời luôn được vinh hiển. Rôma 15.5-7
chép: “Xin
Đức Chúa Trời hay nhịn nhục và yên ủi ban cho anh em được đồng lòng ở với nhau
theo Đức Chúa Jêsus Christ; để anh em lấy một lòng một miệng mà ngợi khen Đức
Chúa Trời, là Cha của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta. Vậy thì, anh em hãy tiếp
lấy nhau, cũng như Đấng Christ đã tiếp anh em, để Đức Chúa Trời được vinh hiển”.
3. Nếu chúng ta muốn làm đẹp
lòng Đức Chúa Trời, chúng ta phải đối xử với nhau bằng sự nhu mì. Đây là một số
đề nghị thực tế:
a.
Nhường thứ gì bạn muốn cho người bạn đời, cho con cái của bạn…
b. Từ chối không trả đũa và báo
thù khi bị xúc phạm.
c. Không nhận lãnh sự khen ngợi
cho chính mình, mà dâng hết thảy cho Đức Chúa Trời. Có vị Mục sư kia từng chổi
dậy giảng ở một nơi công cộng có nhiều người nhóm lại. Khi ông rao giảng, người
ta đã vỗ tay tán thưởng ông thật nhiều. Ông đã đáp ứng lại bằng cách nói: “Vỗ tay trước khi diễn
giả bắt đầu là một hành động của đức tin. Vỗ tay trong khi rao giảng là một
hành động của hy vọng. Vỗ tay sau khi ông ta kết luận là một hành động của sự
làm ơn”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét