MATHIƠ
- VUA CÁC VUA
Chúa của
ngày Sabát
Mathiơ 12.1-14
1. Mẹ tôi tin vào
việc tuân giữ ngày sabát. Khi tôi còn nhỏ, ít nhất tôi đã nghe nói cả ngàn lần
ngày Chúa nhật đó, ngày sabát của bà là một ngày yên nghỉ và thờ phượng. Chúng
tôi phải đi nhà thờ. Trở về nhà ăn trưa với thịt gà chiên hoặc thịt bò nướng,
bánh biscuits nóng, rau tươi...quí vị có thực đơn nào ngon hơn không!?! Vào trưa
Chúa nhật, chúng tôi muốn nghỉ ngơi trước giờ thờ phượng buổi chiều. Điều nầy
thực khó chịu đối với một đứa trẻ. Tôi đã từng bị đòn vì đi câu cá hay đi bơi trong thung lũng vào
các buổi trưa Chúa nhật. Mẹ tôi tin theo vô số những gì Cơ đốc nhân đã làm
trong nhiều thế hệ, ngày Chúa nhật tương đương với ngày sabát của người Do
thái. Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thấy, không có một mạng lịnh nào về một ngày
sabát cho Cơ đốc nhân hết.
2. Chữ "Sabát" theo tiếng Anh
và chữ Hy lạp sabbaton được chuyển từ
tiếng Hy bá lai shabbath (shab-bawth'). Khi Đức Chúa Trời
hoàn thành xong cuộc sáng tạo, Sáng thế ký 2.3 chép: "Rồi,
Ngài ban phước cho ngày thứ bảy, đặt là ngày thánh; vì trong ngày đó, Ngài nghỉ
các công việc đã dựng nên và đã làm xong rồi".
3. Trong 10 Điều
Răn của Xuất Êdíptô ký 20, Đức Chúa Trời xem ngày sabát là thời gian yên nghỉ
và tưởng nhớ cho dân sự Ngài. 9 trong 10 điều luật xử lý với mặt đạo đức. Một điều
duy về luật ngày sabát cần phải tuân giữ và đặc biệt cho dân Israel và Kinh
Cựu ước. 9 điều răn khác được nhắc đi nhắc lại và dạy dỗ suốt Tân ước, còn về
ngày sabát thì không được nhắc tới.
4. Chẳng có gì
sai cho người tin Chúa khi biệt riêng ngày Chúa nhật là một “ngày
yên nghỉ và thờ phượng”; tuy nhiên, quả là không đúng cho chúng ta khi gán
niềm tin ấy cho người khác. Rôma 14.5-6 chép: "Người
nầy tưởng ngày nầy hơn ngày khác, kẻ kia tưởng mọi ngày đều bằng nhau; ai nấy
hãy tin chắc ở trí mình. Kẻ giữ ngày là giữ vì Chúa; kẻ ăn là ăn vì Chúa, vì họ
tạ ơn Đức Chúa Trời; kẻ chẳng ăn cũng chẳng ăn vì Chúa, họ cũng tạ ơn Đức Chúa
Trời”. Mục đích là, chúng ta không cần phải tuân giữ theo luật pháp.
5. Từ phân đoạn
Kinh Thánh nầy, không những chúng ta sẽ tiếp thu một lẽ thật của Tân ước về
ngày sabát, mà chúng ta còn tiếp thu lẽ thật nói về Cứu Chúa của chúng ta là
"Chúa của ngày sabát” nữa.
I. Nan đề về ngày sabát (các câu 1-2).
A. Người Do thái đã thêm nhiều
phần truyền khẩu do con người lập ra cho ngày sabát.
1. Kinh Talmud, quyển sách
ghi lại những truyền khẩu của người Do thái có 24 chương liệt kê ra nhiều điều
luật khác nhau về ngày sabát. Tôi có thể kể ra nhiều điều luật, song ở đây là một
khuôn mẫu:
a. Ngươi không nên đi hơn
3.000 bước tính từ nhà của ngươi.
b. Ngươi không nên mang bất
kỳ vật gì nặng hơn một con cá đã chiên rồi, còn nếu vật nặng phân nửa số lượng ấy,
ngươi có thể mang thành hai lần.
c. Ngươi không nên ném vật
gì bằng tay nầy và cầm vật đó bằng tay kia.
d. Ngươi không nên mang theo
cây kim vì e rằng ngươi sẽ may một cái gì đó.
e. Ngươi không nên tắm e nước
sẽ văng ra thềm nhà và lau nó.
f. Phụ nữ không nên soi gương,
e chúng có thể kéo theo sợi tóc.
g. Răng giả không nên mang
vì chúng làm tăng phần giới hạn trọng lượng khi vác nặng.
h. Ngày sabát vốn khó đến nỗi
dân sự phải làm lụng khó nhọc hơn công việc trong 6 ngày kia của tuần lễ để
không làm việc trong ngày sabát. Không có gì phải ngạc nhiên khi Chúa Jêsus gọi
chúng là "gánh nặng" (11.28).
2. Những hạn chế về mặt luật
pháp trong ngày sabát của người Do thái là những điều rất nguy hiểm. Sách ngụy
tác 1 Maccabe nói tới thời kỳ Antiochus Epiphanes đã giết một nhóm người Do
thái chiếu theo lịnh của Judas Maccabaeus vì người Do thái đã từ chối không chịu
cầm lấy vũ khí trong ngày sabát. Về sau Josephus đã viết về thời điểm khi Tướng
La mã là Pompey vây hãm thành Jerusalem
bằng cách đắp một ngọn đồi nhỏ gần bức tường thành phố nhằm vào ngày sabát. Người
Do thái đã từ chối không ngăn chặn và ông ta đã chiếm được thành ấy.
B. Các môn đồ đã phá vỡ truyền
thống sabát do con người lập ra (câu 1).
1. Chúa Jêsus đang dẫn các
môn đồ Ngài "đi qua giữa đồng lúa mì" nhằm ngày sabát.
Chuyến đi nầy đã phá vỡ ngày sabát của người Do thái. Chúa Jêsus đã tuân giữ đầy
đủ luật pháp. Ngài đã phán trong Mathiơ 5.17: "Các ngươi đừng
tưởng ta đến đặng phá luật pháp hay là lời tiên tri; ta đến, không phải để phá,
song để làm cho trọn". Ngài chỉ phá vỡ
truyền khẩu về luật pháp của người Do thái mà thôi.
2. Trong thời buổi ấy, đường
xá thường nhỏ bé, chỉ là những con đường mòn, vì sử dụng nhiều và đồng lúa nằm
ngay bên cạnh các con đường đó. Có lẽ Chúa Jêsus cùng các môn đồ Ngài đang sử dụng
một con đường đi tắt ngang qua ruộng lúa.
3. Khi họ đang đi, các môn đồ
bị "đói”. Đáp ứng lại với cái đói đó, họ đã "bứt
bông lúa mà ăn".
4. Điều nầy được phép trong
một khoản của luật pháp Đức Chúa Trời. Hãy chú ý Phục truyền luật
lệ ký 23-24-25.
C. Người Pharisi đã nổi giận
với các môn đồ (câu 2).
1. Tôi có một thắc mắc. Mấy
người Pharisi nầy sao dám bước vào đồng ruộng vào ngày sabát chớ? Có người nói
họ sống giống như "cảnh sát trong ngày sabát" vậy.
2. Đặc biệt hãy chú ý câu hỏi
của họ: "Kìa môn đồ thầy làm điều KHÔNG NÊN LÀM trong ngày
Sa-bát". Nói cách khác, họ đã xem những điều truyền
khẩu của họ vào cùng cấp độ với Lời của Đức Chúa Trời!
II. Một số dạy
dỗ quan trọng về ngày sabát (các câu 3-8).
A. Ngày sabát không phải là
phương tiện để ngăn cấm những điều cấp thiết (các câu 2-4).
1. Khi người Pharisi dám cả
gan thắc mắc mọi hành động của Con Đức Chúa Trời. Ngài phán: "Chuyện
vua Đa-vít đã làm trong khi vua với kẻ đi theo bị đói, các ngươi há chưa đọc đến
sao?"
2. Tất nhiên là họ có "đọc" rồi. Họ là hạng
học giả của Cựu ước, câu hỏi của Chúa Jêsus rõ ràng là một câu châm biếm rất nặng.
3. David là siêu anh hùng của
Do thái giáo. Ông giống như Abraham Lincoln của người Do thái! Chúa Jêsus đã nhắc
cho người Pharisi nhớ thể nào vị anh hùng của họ và "với
kẻ đi theo" đã "vào đền Đức Chúa Trời" và "ăn
bánh bày ra", là bánh "không
có phép ăn" đối với bất kỳ ai trừ ra dòng thầy tế lễ mới được
phép (đối chiếu I Samuên 21.4).
4. Thầy tế lễ, Ahimêléc đã
ban bánh bày ra đó cho David vì ông và đoàn tuỳ tùng đã đói lắm rồi và họ không
có bánh nào khác nữa. Hiển nhiên là Đức Chúa Trời đã không xét đoán David, người
của ông, cũng không xét đoán Ahimêléc về hành động nầy.
5. Đây là một trường hợp cho
thấy Đức Chúa Trời thể nào đã bằng lòng gạt qua một bên nghi thức của luật pháp
hầu chúc phước cho những điều cấp thiết của dân sự Ngài.
6. Chúa Jêsus cũng đã hỏi
trong Luca 14.5: "Nào có ai trong các ngươi, đương
ngày Sa-bát, nếu có con trai hay là bò mình té xuống giếng mà không kéo liền
lên sao?"
B. Ngày sabát không phải là
phương tiện để ngăn cấm thờ phượng Đức Chúa Trời (các câu 5-6).
1. Chúa Jêsus cũng nhắc nhở
rằng "các thầy tế lễ trong đền thờ" luôn luôn "phạm
luật" hay làm mất tính thiêng liêng ngày sabát bằng cách phá vỡ các điều luật
của ngày ấy qua việc làm. Họ đã làm việc khó nhọc vào ngày sabát hơn bất kỳ
ngày nào khác trong tuần. Họ đã đốt lửa trên bàn thờ, đã giết con sinh tế, đặt
xác con sinh lên bàn thờ, v.v...Tuy nhiên, trong mọi điều nầy người ta xem họ "mà
không phải tội".
2. Cũng một thể ấy, những
tín đồ theo luật pháp, họ cố gắng giữ một ngày sabát tôn giáo quên rằng họ đang
làm việc vào ngày sabát: dạy một lớp học, giảng một bài giảng, hướng dẫn một
nhóm thanh niên, hoặc làm việc với thiếu nhi, mọi sự đều đòi hỏi một lượng nổ lực
rất lớn.
3. Hãy chú ý Chúa Jêsus đã
phán: "tại chỗ nầy có một đấng tôn trọng hơn đền thờ". Thật là khó cho
chúng ta tưởng tượng đền thờ thánh như thế nào đối với người Do thái. Mặc dù họ
không hiểu hết, Chúa Jêsus đang tự áp đặt sự phục vụ của Ngài với Đức Chúa Cha
vốn sâu xa hơn cả đền thờ và mọi truyền thống theo luật pháp của họ.
C. Ngày sabát không phải là
phương tiện để ngăn trở lòng thương xót (các câu 7-8).
1. Một lần nữa, hãy chú ý sự
châm biếm của Chúa khi Ngài phán: "Phải chi
các ngươi hiểu nghĩa câu nầy...". Ngài trưng dẫn
Ôsê 6.6, câu nầy chép như sau: "Ta muốn
lòng nhân từ, không muốn của tế lễ".
2. Sự tuân giữ nghiêm ngặt
ngày sabát là một "của tế lễ". Người ta đã hy
sinh công việc làm thường ngày của họ và chịu khó làm việc để không phá vỡ mọi
truyền thống của các trưởng lão.
3. Nếu họ thực sự hiểu rõ
Kinh Thánh, họ sẽ "không trách những người vô tội", các môn đồ. Việc
tuân giữ bất kỳ một sự hy sinh nào, bất kỳ một kỹ luật thuộc linh nào, dù đó là
cầu nguyện, kiêng ăn, bố thí, v.v... sẽ không bao giờ chiếm chỗ, cũng không trở
nên quan trọng trong con mắt của Đức Chúa Trời hơn là tỏ ra "lòng
nhân từ".
4. Đức Chúa Trời sẽ không
xét đoán chúng ta chỗ chúng ta tuân giữ các luật lệ nhiều như thế nào như Ngài
sẽ xét đoán chúng ta vì những ham muốn và các động lực trong tấm lòng của chúng
ta.
5. Ý nghĩa lời lẽ của Chúa
Jêsus trong câu 12 là đáng tin cậy. Ý nghĩa của Ngài không có dự tính gây hại
cho người Pharisi khi Ngài phán: "Con Người
là Chúa của ngày sabát".
6. Vì Chúa Jêsus là "Chúa", chúng ta không
còn cần ngày sabát nữa. Tân ước không đòi hỏi một ngày sabát vì cớ mỗi ngày đều
là ngày sabát! (Rôma 14.5-6).
III. Một minh
hoạ thích ứng cho ngày sabát (các câu 9-14).
A. Một tình huống khó và một
câu hỏi khó (các câu 9-10).
1. Chúa Jêsus đã "đi
khỏi nơi đó", Ngài rời khỏi đồng lúa rồi "vào
nhà hội". Chúa Jêsus đã vào trong hang ổ của các cấp lãnh đạo
tôn giáo chuyên tự xưng công bình. Họ nghĩ Ngài sẽ vào đặng thờ lạy, nhưng Ngài
vốn biết rõ Ngài đến để dạy cho họ một bài học mà họ sẽ chẳng bao giờ chịu nghe
theo.
2. Có một sự ấn định thiêng
liêng đã chờ đợi Chúa Jêsus trong “nhà hội”. Ở đó Ngài đã gặp
"một người teo một bàn tay". Hãy lưu ý là người
nầy không yêu cầu Chúa Jêsus chữa lành cho ông ta. Không giống như nhiều người
khác, dường như ông ta đã lúng túng khi đứng giữa sự chú ý của nhiều ngưòi.
3. Mà đúng hơn, người
Pharisi đã giới thiệu người nầy với Chúa Jêsus với một câu hỏi: "Trong
ngày Sa-bát, có phép chữa kẻ bịnh hay không?" Họ muốn có một
lý lẽ nào đó rồi với lý lẽ ấy họ "kiện
Ngài". Họ không quan tâm tới nhu cần của người nầy, sự phục vụ Đức Chúa Trời
hay lòng thương xót của họ. Mục tiêu chính của họ là muốn gài bẫy Chúa Jêsus.
B. Một câu hỏi được giải đáp
bằng một câu hỏi (các câu 11-12).
1. Chúa Jêsus là bậc thầy của
loại đối đáp nầy. Lối lý luận đáng kinh ngạc của Ngài đã kéo người Pharisi sập
vào cái bẫy của chính họ cài đặt. Ngài đã hỏi nếu người kia có một “con
chiên” té vào hố trong ngày sabát, lẽ nào ông ta “không
kéo nó lên sao". Sabát hay không sabát, bất kỳ một người chủ nào của
con thú cũng sẽ tìm cách để bảo hộ tài vật của mình, sự sống của ông ta trong
ngày sabát.
2. Câu hỏi của Chúa Jêsus đã
ngắt ngang họ: "Huống chi người ta trọng hơn con
chiên là dường nào!" Như trong nhiều trường hợp khác, Chúa Jêsus đã bàn
từ chỗ thấp lên cao. Nếu cứu con chiên là điều nên làm, thì cứu một người lại
càng nên làm hơn nữa là dường nào!
3. Dựa theo lối lý luận theo
Kinh Thánh như thế nầy, Chúa Jêsus đã trả lời cho câu hỏi ngu xuẫn của họ. Ngài
phán: "Vậy, trong ngày sabát có phép làm việc lành". Hãy lưu ý Ngài không chỉ nói "chữa
lành" mà là "làm việc lành". Vậy thì giúp đỡ
cho một người bạn vào ngày Chúa nhật có được không? Chắc là được rồi! Sửa soạn
một bữa ăn thông công có chắc được không? Chắc được mà! Hêbơrơ 10.25 chép: "chớ
bỏ qua sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm...".
C. Ý nghĩa thực sự của ngày
sabát (các câu 13-14).
1. Quí vị có thể nghe một sự
vui vẻ trong nhà hội khi Chúa Jêsus phán: "Hãy
giơ tay ra" cho người bị teo tay. Chúa Jêsus không hề chạm đến
ông ta. Với đức tin đơn sơ, khi người nầy mở rộng bàn tay bị teo ra "thì
tay nầy cũng lành như tay kia".
2. Không những Chúa Jêsus đã
phán nên “làm điều lành” trong ngày sabát.
Chính mình Ngài đã làm lành vào ngày sabát! Tôi dám cuộc là người đã được lành
rất vui mừng khi mình được chữa lành!
3. Bài học của Chúa Jêsus đã
rơi đúng trên người Pharisi. Câu 14 chép họ bỏ "đi ra
ngoài". Quí vị há chẳng thấy cơn bão nổ ra trong căn phòng ấy sao! Những người
lúc nào cũng tuân thủ theo luật pháp không thể hiểu được!
4. Cái điều tồi tệ hơn, là họ
“bàn với nhau”, tìm cách "lập
mưu đặng giết Ngài" .