MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Lời mời
long trọng
Mathiơ 11.25-30
1. Tại sao Chúa
Jêsus lìa bỏ sự vinh hiển, sự thờ phượng và vẻ đẹp lộng lẫy của cung điện trên
trời để rồi trở thành một con người? Tại sao Ngài giới hạn các thuộc tính của
Ngài là Đức Chúa Trời để mặc lấy hình thể của người thợ mộc đơn sơ? Tại sao
Ngài mang lấy mọi tội lỗi của cả nhân loại trên linh hồn vô tội của Ngài và chịu
chết với tội lỗi đó trên một cây thập tự? Tại sao Ngài thoát khỏi xiềng xích của
sự chết trong sự sống lại của Ngài? Kinh Thánh trả lời cho các thắc mắc nầy
trong nhiều phân đoạn.
A. Ngài phán trong Luca
19.10: "Bởi Con người đã đến tìm và cứu kẻ bị mất".
B. I Timôtthê 1.15 chép: "Đức
Chúa Jêsus Christ đã đến trong thế gian để cứu vớt kẻ có tội, ấy là lời chắc chắn,
đáng đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy..."
C. Ngài đã phán trong Giăng
6.35: "Ta là bánh của sự sống; ai đến cùng ta chẳng hề đói,
và ai tin ta chẳng hề khát".
D. Ngài đã phán trong Giăng
8.12: "Ta là sự sáng của thế gian; người nào theo ta, chẳng đi
trong nơi tối tăm, nhưng có ánh sáng của sự sống".
E. Ngài đã phán trong Giăng
11.25: "Ta là sự sống lại và sự sống; kẻ nào tin ta thì sẽ sống,
mặc dầu đã chết rồi".
F. Các tiên tri đã nói trước
lý do cho sự đến của Ngài. Êsai 45.22 chép: "Hỡi
các ngươi hết thảy ở các nơi đầu cùng đất, hãy nhìn xem ta và được cứu! Vì ta
là Đức Chúa Trời, chẳng có Chúa nào khác".
G. Êsai
55.1, 3 chép: "Hỡi những kẻ nào khát, hãy đến
suối nước! Và người nào không có tiền bạc, hãy đến, mua mà ăn! Hãy đến, mua rượu
và sữa mà không cần tiền, không đòi giá. Hãy nghiêng tai, và đến cùng ta; hãy
nghe ta, thì linh hồn các ngươi được sống”.
H. Chương sau cùng của Kinh
Thánh chứa lời mời gọi nầy trong Khải huyền 22.17: "Thánh
Linh và vợ mới cùng nói: Hãy đến! Kẻ nào nghe cũng hãy nói rằng: Hãy đến! Ai
khát, khá đến. Kẻ nào muốn, khá nhận lấy nước sự sống cách nhưng không".
2. Trong phân đoạn nầy, chúng ta thấy một tiểu
đoạn được biết là Lời Mời Long Trọng trong các
câu 28 -30. Thường mấy câu nầy được trưng dẫn tách ra khỏi văn mạch của chúng và đánh
mất cái bóng ý nghĩa nguyên thuỷ của chúng. Phải, Chúa Jêsus đưa ra một lời mời
gọi long trọng. Phải, lời ấy dành cho mọi người. Phải, Chúa Jêsus đã đến để hết
thảy chúng ta đều được cứu. Tuy nhiên, chúng ta hãy đào sâu cả phân đoạn nầy,
chẻ phân đoạn ấy ra như Bài Cầu Nguyện của Chúa Jêsus, Lời Công Bố Quan Trọng của
Chúa Jêsus, và Lời Hứa Quan Trọng của
Chúa Jêsus.
I. BÀI
CẦU NGUYỆN CỦA CHÚA JÊSUS (các câu 25-26).
A. Mục đích của lời cầu nguyện
(câu 25a).
1. Chúa Jêsus đã dừng lại để
"cảm tạ" Đức Chúa Cha. Từ ngữ "cảm
tạ" trong bản Kinh Thánh NKJV được dịch là "ngợi
khen" trong các bản dịch khác. Sát nghĩa, từ ngữ nầy có ý "đồng
ý trọn vẹn".
2. Trước khi chúng ta tìm hiểu
lời cầu nguyện ngợi khen và cảm tạ nầy, chúng ta phải nhớ tới phần văn mạch.
a. Lúc bắt đầu chương, Chúa
Jêsus tiếp nhận một sứ điệp nói tới sự nhầm lẫn và nghi ngờ từ phía Giăng
Báptít.
b. Chúa Jêsus bảo đảm với “đoàn
dân đông” đang đứng nghe đó về Giăng rằng "trong những
người bởi đờn bà sanh ra, không có ai được tôn trọng hơn Giăng Báp-tít".
c. Kế đó Ngài so sánh "dòng
dõi" của những kẻ chối bỏ cả Ngài và Giăng là con cái ăn hại, ngược ngạo.
d. Ngài đi xa hơn bằng cách
công bố ra những điều khốn nạn của sự phán xét giáng trên các thành phố "Côraxin", "Bếsaiđa" và "Cabênaum" vì thái độ dửng dưng
của họ, thậm chí khi họ sống giữa các “phép lạ” của Ngài.
3. Chúa Jêsus đang đối diện
với sự chối bỏ rất trầm trọng. Giăng 1.11 chép: "Ngài đã đến
trong xứ mình, song dân mình chẳng hề nhận lấy". Dù Ngài bị chối
bỏ, Chúa Jêsus gặp được sự yên nghỉ trong sự khen ngợi Cha của Ngài.
4. Chúa Jêsus là tấm gương tối
hậu của chúng ta. Đôi khi tôi thất vọng khi thấy nhiều người chưa được cứu. Đôi
khi, tôi chán nãn trong công việc của Đức Chúa Trời. Chỉ khi tôi bắt đầu dâng lời “cảm
tạ” và ngợi khen Đức Chúa Trời, thì tôi mới thắng hơn sự chán nãn ấy.
5. Quí vị có ngã lòng không?
Quí vị có chán nãn tối nay không? Quí bạn tôi ơi, hãy noi theo gương của Cứu
Chúa chúng ta và quí vị sẽ được nâng cao lên trong sự thờ phượng.
B. Lý do cho sự cầu nguyện (câu
25b).
1. Chúa Jêsus đã cảm tạ Đức
Chúa Cha đến nỗi Ngài đã "giấu những điều này với kẻ khôn
ngoan, người sáng dạ". “Kẻ khôn sáng và người sáng
dạ [thông minh hay hiểu biết]" cách nói mỉa mai đối với những
người khôn ngoan theo mắt họ.
2. Thứ nhứt, chúng ta hãy
tìm hiểu những gì câu nầy không nói tới. Câu nầy không có ý nói người nào có sự
thông minh và kỹ năng thông thạo, sẽ không được cứu. Một số người rất thông
minh là hạng tín đồ tin kính lắm.
3. Những gì câu nầy muốn nói
tới: ấy là sự tự hào về trí thông minh thường ngăn trở không cho người ta bước
vào Vương quốc. Họ lấy sự hiểu biết và thông minh của họ, những thứ là ân tứ đến
từ Đức Chúa Trời, rồi sự kiêu căng làm hư hỏng họ, để rồi chúng trở thành chiếc
hàng rào ngăn trở họ không đến được với Đức Chúa Trời.
4. Thi thiên 138.6 chép: "Dầu
Đức Giê-hô-va cao cả, thì cũng đoái đến những người hèn hạ; Còn kẻ kiêu ngạo,
Ngài nhận biết từ xa".
5. Rôma 1.22 chép về họ như
sau: "...tự xưng mình là khôn ngoan, mà trở nên điên dại".
6. Đúng hơn, Chúa Jêsus phán
rằng Đức Chúa Trời đã "tỏ ra" "những
việc nầy" là lẽ thật nói tới Nước Trời cho "những
con trẻ" hay. Chữ nầy
đến từ nepios, ám chỉ tới một đứa trẻ chưa thể ăn thịt, mà
chỉ uống sửa, một đứa trẻ chưa biết nói.
7. "Những
con trẻ" là những kẻ ngược lại với "kẻ
khôn ngoan, người sáng dạ". Dù một người có học thức
cao và khôn khéo cực kỳ, người đó phải trở thành một "con
trẻ" hoàn toàn nương cậy vào Đức Chúa Cha trước khi người được cứu. Chúa
Jêsus đã phán trong Mathiơ 18.3: "Quả thật,
ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi không đổi lại và nên như đứa trẻ, thì chẳng
được vào nước thiên đàng đâu".
8. Hỡi con cái bé mọn, sát
nghĩa là "những con trẻ" hoàn toàn nương cậy
vào Đức Chúa Trời và vì lẽ đó được an ninh cho tới khi họ đạt đến tuổi trưởng
thành.
9. Đúng là một phước hạnh,
khi chúng ta không khôn ngoan hay sáng dạ để được cứu. Chúng ta không phải là hạng
chuyên gia theo ngôn ngữ của Kinh Thánh để hiểu Kinh Thánh. Có nhiều học giả Hy
bá lai và Hy lạp hiện đang ở trong địa ngục tối nay! Lẽ thật của Đức Chúa Trời,
"những việc nầy" chính là những vụ
việc thuộc linh. Chúng ta hãy xem I Côrinhtô
2.13-14.
10. Sự đối ngược giữa "kẻ
khôn ngoan, người sáng dạ" và "con
trẻ" không phải là sự đối chiếu giữa người có học thức và kẻ dốt nát, giữa
người sáng láng và kẻ khờ dại, mà là giữa những người ngương cậy vào bản thân họ
và những ai biết hạ mình đến như con trẻ trong sự nương cậy hoàn toàn.
C. Sự chắc chắn của lời cầu
nguyện (câu 26).
1. Chúa Jêsus phán: "Phải,
thật như vậy" vì "Cha đã thấy điều đó là tốt
lành". Đức Chúa Trời vốn đẹp lòng với Tin Lành vì Tin Lành không hề đem lại
sự vinh hiển cho tôi, mà chỉ đem sự vinh hiển cho Chúa mà thôi.
2. Xem I
Côrinhtô 26-27.
3. Giăng 3 chép Nicôđem là "giáo
sư của Israel" thế mà ông chẳng hiểu biết đường lối của Đức Chúa
Trời (Giăng 3.3-12).
II. LỜI CÔNG BỐ
QUAN TRỌNG CỦA CHÚA JÊSUS (câu 27).
A. Đức Chúa Cha đã ban cho
Chúa Jêsus quyền phép trên “Mọi
Việc” (câu 27a).
1. Dường như Chúa Jêsus đã
chuyển cách nói trong sự cầu nguyện với Đức Chúa Cha sang đám dân đông đứng
xung quanh để công bố ra một lẽ thật.
2. “Mọi
việc” mà Đức Chúa Cha đã “giao” cho Chúa Jêsus là
những việc nào? Hãy gạch dưới dòng chữ "những điều
nầy" trong câu 25.
3. Chúng ta hãy xét qua Giăng
5.21 - 24 và Mathiơ 28.18.
4. Phải, Chúa Jêsus đã được Đức
Chúa Cha giao cho mọi quyền phép. Tuy nhiên, một cách đặc biệt, “mọi
việc” mà Ngài đã nói đó chính là lẽ thật nói về Nước Trời, “mọi
việc” mà người Galilê đã chối bỏ.
B. Chỉ có Đức Chúa Cha mới
thực sự biết rõ Đức Chúa Con (câu 27b).
1. Vì nhiều người trong vòng
chúng ta đã nghiên cứu Kinh Thánh lâu nay, chúng ta nghĩ chúng ta có sự hiểu biết
sâu sắc về Đức Chúa Jêsus Christ. Vì chúng ta đồng đi với Ngài, cầu nguyện qua
Ngài và trò chuyện với Ngài, chúng ta tưởng chúng ta biết rõ Ngài.
2. Tuy nhiên, tri thức của
chúng ta về Chúa Jêsus bị giới hạn nhiều lắm. Lý trí của chúng ta không thể hiểu
hết Ngài được. Chỉ có đầu óc thiêng liêng mới có thể thực sự “nhận
biết” Chúa Jêsus.
3. Chúa Jêsus đang kể ra sự
thực là dân chúng chẳng hiểu được Ngài. Đây là lời công bố nói về lẽ mầu nhiệm
chính tư cách của Ngài.
C. Đức Chúa Con bày tỏ Đức
Chúa Cha ra cho chúng ta (câu 27c).
1. Chúa Jêsus phán rằng
không một ai biết được Đức Chúa Cha trừ phi "người nào
mà Con muốn tỏ ra cùng".
2. Việc nầy dường như kỳ lạ,
chúng ta hiện đang có sự hiểu biết nhiều về Đức Chúa Cha hơn chúng ta biết về Đức
Chúa Con. Trong sự cứu rỗi, Chúa Jêsus đã chuộc lấy tội lỗi của chúng ta để khiến
cho chúng ta được “làm một” với Đức Chúa Cha.
III. LỜI HỨA
LONG TRỌNG CỦA CHÚA JÊSUS (các câu 28-30).
A. Chúng ta được kêu gọi phải
“đến” với Chúa Jêsus
(câu 28).
1. Lý do người ta phạm tội,
lý do họ nãn lòng, thất vọng và vô vọng ấy là họ không nhận biết Đức Chúa Cha.
Phần văn mạch cho chúng ta thấy chìa khoá cho sự vui mừng thật, bình an, và hạnh
phước là "đến" với Đức Chúa Cha nhờ Đức
Chúa Jêsus.
2. Chúa Jêsus phán rằng "Hỡi
những kẻ mệt mỏi và gánh nặng" là “hãy đến”. Đây là một lời mời
gọi cho cả người đã được cứu và người chưa được cứu.
3. "Những
con trẻ" cũng phải đến nữa. Giăng Báptít cũng phải đến. Các
thành phố chưa ăn năn cũng phải đến. “Kẻ khôn ngoan và
người sáng dạ” cũng phải đến. Chúa Jêsus đang kêu gọi "hết
thảy".
4. Ơn cứu rỗi chỉ thấy có nơi
Chúa Jêsus. Công vụ Các Sứ Đồ 4.12 chép: "Chẳng có sự
cứu rỗi trong đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho
loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu".
5. Gánh nặng nào khiến cho
chúng ta phải "mệt mỏi” và “gánh
nặng”? Gánh nặng đó là sống ngoài ý chỉ
của Đức Chúa Trời. Lời cầu nguyện có quyền lực nhất mà chúng ta có thể dâng lên
được rút ra từ Thi thiên 143.10: "Xin dạy tôi
làm theo ý muốn Chúa, vì Chúa là Đức Chúa Trời tôi".
6. Khi chúng ta "đến" với Đấng Christ,
Ngài ban cho chúng ta sự "yên nghỉ" không còn phấn đấu
lo làm đẹp lòng Đức Chúa Trời bằng những việc lành riêng của chúng ta và "yên
nghỉ" không còn tranh đấu với xác thịt nữa.
B. Chúng ta được kêu gọi để
gánh lấy “ách” của Chúa Jêsus (câu 29a).
1. “Ách” được chế tạo sao
cho vừa khít cổ của một con bò. Ách được dùng theo thuật ngữ Kinh Thánh là một
hình bóng nói tới sự thuận phục. Học trò đã “ở dưới cái ách
[sự thuận phục]” thầy của họ.
2. Ngay cả người đã được sanh
lại bằng cách đến với Chúa Jêsus không thể thấy thoả lòng khi tách ra khỏi sự đầu
phục đối với Ngài.
3. Có nhiều Cơ đốc nhân đang
phấn đấu vì họ đang ra sức sống đời sống theo các giới hạn riêng của họ và họ
không được “yên nghỉ”.
C. Chúng ta được kêu gọi phải
"học" theo Chúa Jêsus (câu 29b). Chúng ta ‘học” theo Chúa Jêsus
bằng cách nào? Bằng cách nghiên cứu Lời của Ngài. Sự tấn tới về mặt thuộc linh
của quí vị, sự “yên nghỉ” của quí vị trong Chúa được
kết rõ ràng với năng lực quí vị đầu tư vào việc học hỏi Lời của Đức Chúa Trời.
D. Kết Quả của Sự Vâng Phục
là Được “Yên Nghỉ” Trọn Vẹn (các
câu 29c-30).
1. Không giống như luật
pháp, rất khó chịu, Chúa Jêsus là “nhu mì và khiêm
nhường”. Thay vì chất chứa nhiều điều luật khó chu
toàn trên chúng ta, trong Ngài chúng ta tìm được "sự yên nghỉ
cho linh hồn [chúng ta]".
2. “Ách [của
Chúa Jêsus] thì dễ chịu” và “gánh
[của Ngài] thì nhẹ nhàng”. I Giăng 5.3 chép: "Vì
nầy là sự yêu mến Đức Chúa Trời, tức là chúng ta vâng giữ điều răn Ngài. Điều răn
của Ngài chẳng phải là nặng nề".
3. Quí vị chưa chạy đến với
Ngài, đầu phục Ngài và học theo Ngài từ hôm nay sao?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét