MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Tội
không đáng tha thứ
Mathiơ
12:22-32
1. Hết lúc nầy đến
lúc khác, có người đến hỏi tôi: "Thưa Mục sư, ông có tin vào
tội không đáng tha thứ không?" Những điều họ muốn
nói là tôi có tin rằng có người phạm tội tồi tệ đến nỗi Đức Chúa Trời sẽ không
bao giờ tha thứ cho người ấy chăng? Liệu có người trở thành tay giết người, say
xỉn, hư hỏng, lừa đảo, v.v... đến nỗi người ấy đã đi quá mức ân điển của Đức
Chúa Trời không? Không, tôi không tin như thế đâu!
2. Đức Chúa Trời
của chúng ta được đánh dấu bằng sự tha thứ.
A. Thi thiên 86.5
chép: "Chúa ôi! Chúa là thiện, sẵn tha thứ cho, ban sự nhơn từ
dư dật cho những người kêu cầu cùng Chúa".
B. Thi thiên
103.3 cho biết: "Ấy là Ngài tha thứ các tội ác ngươi,
chữa lành mọi bịnh tật ngươi".
C. Đaniên 9.9 nhắc
cho chúng ta nhớ: "Những sự thương xót và tha thứ đều
thuộc về Chúa là Đức Chúa Trời chúng tôi; bởi chúng tôi đã bạn nghịch cùng Ngài".
D. Xuất
Êdíptô ký 34.6-7 chép: "Ngài đi ngang qua mặt
người, hô rằng: Giê-hô-va! Giê-hô-va! là Đức Chúa Trời nhân từ, thương xót, chậm
giận, đầy dẫy ân huệ và thành thực, ban ơn
đến ngàn đời, xá điều gian ác, tội trọng, và tội lỗi; nhưng chẳng kể kẻ có tội
là vô tội, và nhơn tội tổ phụ phạt đến con cháu trải ba bốn đời".
3. Kinh Cựu Ước đầy dẫy với
những điển hình về sự tha thứ của Đức Chúa Trời, nào là Ađam và Êva, Ápraham,
Ysác, Giacốp, Môise. Di sản của nước Israel là di sản của tội lỗi và sự
tha thứ.
4. Kinh Tân Ước có nhiều sự
dạy về ơn tha thứ của Đức Chúa Trời.
A. Êphêsô 1.7
chép: "Ấy là trong Đấng Christ, chúng ta được cứu chuộc bởi
huyết Ngài, được tha tội, theo sự dư dật của ân điển Ngài".
B. 1 Giăng 1.9
chép: "Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín
công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian
ác".
C. Tội lỗi tệ hại
nhất mà chúng ta có thể hình dung được là tội giết chính Con một của Đức Chúa
Trời đang khi Ngài ra sức tìm cứu chúng ta. Ấy là từ trên thập tự giá, Chúa
Jêsus đã cầu nguyện: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ
không biết mình làm điều gì. Đoạn, họ bắt thăm chia nhau áo xống của Ngài" (Luca 23.34).
5. Ở một chừng mực nào đó,
thậm chí Đức Chúa Trời tha thứ cho tội chối bỏ Đấng Christ, vì trước khi chúng
ta trở thành người tin Chúa, hết thảy chúng ta đều là hạng người chối bỏ Đấng
Christ.
6. Mặc dù ít nhất là một năm
trước khi Chúa Jêsus bị người ta đóng đinh trên thập tự giá, các cấp lãnh đạo
tôn giáo đã xem Ngài là một mối đe doạ cho Do thái giáo và bắt đầu tỏ vẽ thù
nghịch tấn công vào Ngài.
I. Một sự chữa
lành đáng ngạc nhiên (các câu 22-23).
A. Chúa Jêsus chữa
lành cho kẻ mắc nhiều chứng bịnh (câu 22).
1. Câu 15 cho
chúng ta biết rằng "có nhiều người" đã đi theo Chúa
Jêsus và "Ngài chữa lành cả". Có lẽ người nầy
mới vừa đến. Ông ta không thể tự mình đi theo Chúa Jêsus nên có mấy kẻ "đem" ông ta đến với
Ngài.
2. Ngày nay, người
ta hiếm khi tìm gặp Chúa Jêsus bằng sức lực riêng của họ. Họ phải được "đem
đến".
3. Người nầy có
hai nan đề: về thuộc linh và về thuộc thể. Nói theo cách thuộc linh, ông ta đã
bị "quỉ ám". Về mặt thuộc thể, ông ta bị
"đui" và "câm" , và chắc chắn là
điếc nữa, một khi điếc hay đi đôi với câm.
4. Chúa Jêsus đã
thực thi quyền phép của Ngài trên cả hai lãnh vực và đã “chữa
lành” cho người đó. Ông ta là người đã bị “đui và
câm” giờ đây đã "nói và thấy được".
B. Đoàn dân đông
lấy làm lạ (câu 23).
1. Thật là lạ
lùng và ngay lập tức, linh hồn đáng thương nầy đã được giải phóng cho. “Đoàn
dân đông” nhận rõ sự chữa lành nầy.
2. "Lấy
làm lạ" ra từ một từ ngữ Hy lạp không phổ thông lắm có nghĩa là "không
giữ bình tỉnh được". Những định nghĩa khác bởi các nhà ngôn ngữ học, tỉ
như: "hoàn toàn kinh ngạc", "trong
lòng lấy làm lạ và kinh ngạc", "ý thức bị đánh gục", “vẽ
kinh ngạc lộ ra nơi tâm trí".
3. Ở một chừng mực
nào đó, chúng ta không thể thấy rõ hết, phép lạ đặc biệt nầy đã thắng hơn họ, đoàn
dân đông. Phép lạ nầy được phân biệt hiển nhiên với nhiều phép lạ khác.
4. “Đoàn
dân đông” trong chính ngày đó đã nhìn thấy Chúa Jêsus làm ra nhiều sự chữa lành.
Không một ai phản kháng khả năng chữa lành của Ngài. Tuy nhiên, vì cớ phép lạ
phi thường nầy, người ta đã lấy làm lạ khi hỏi: "Có phải người
đó là con cháu vua Đa-vít chăng?"
5. "Con
cháu David" là tước hiệu của Đấng Mêsi.
II. Một lời vu
cáo lố bịch (các
câu 24-30).
A. Người Pharisi
chỉ ra nguồn quyền phép của Chúa Jêsus (câu 24).
1. Có lẽ chính thắc
mắc về địa vị của Đấng Mêsi khiến cho người Pharisi góp ý cho chúng ta thấy một
lời đề nghị lố bịch như thế. Rõ ràng đây là câu nói mà lẽ ra không nên nói ra.
2. Họ nói Chúa
Jêsus "nhờ Bêên-Xêbun là chúa quỉ mà trừ quỉ đó thôi". Đây là câu nói
tương phản với cách nói cho Ngài là “Con cháu David’. “Bêên-Xêbun” là danh xưng của
một vị thần xứ Canaan mà dân xứ ấy gọi là “chúa
quỉ".
3. Với sự thù
ghét, họ đang ra sức đầu độc “đoàn dân đông” chống lại Chúa
Jêsus.
B. Chúa Jêsus chỉ
ra sự lố bịch trong lời vu cáo của họ (các câu 25-26).
1. Thứ nhứt, hãy
chú ý rằng Chúa Jêsus "biết ý tưởng họ". Mặc dù họ cứ đẩy
đưa lời nói vu lố bịch nầy qua đám dân đông, Chúa Jêsus vốn biết rõ họ đang suy
nghĩ và đang nói gì. Vì vậy Ngài đã giảng cho họ nghe.
2. Ngài phán rằng
bất kỳ "nước" nào "tự
nó chia xé nhau" sẽ dẫn tới chỗ "bị phá
hoang" và bất kỳ "một thành hay một nhà mà chia xé
nhau thì không còn được". Sự tranh chấp nội bộ dẫn tới sự hủy diệt.
Abraham Lincoln đã trưng dẫn câu nói nầy để chỉ ra thảm họa của cuộc Nội Chiến.
3. Mặc dù Satan
là cha của kẻ nói dối, chắc chắn hắn sẽ không để cho các thế lực của hắn đánh đấm
lẫn nhau hoặc hắn sẽ hủy diệt chương trình của hắn.
4. Hiểu như thế nầy
thì rất là hợp lý: "nếu Satan đánh đuổi Satan, hắn sẽ tự
chia xé mình" và "nước" của hắn sẽ không
sao “còn” được.
C. Chúa Jêsus chỉ
ra lời vu cáo của họ là quá thành kiến (câu 27).
1. Chúa Jêsus
phán rằng nếu họ nói Ngài đã đuổi quỉ bằng quyền phép của Satan là đúng, thế
thì bởi đâu “các con” của họ trừ quỉ cho được?
2. "Các
con" có ý ám chỉ đến các môn đồ hay những kẻ theo họ. Chắc chắn có những người
Do thái đã luyện tập phù phép. Josephus nói cho chúng ta biết là họ thường sử dụng
bùa ngải phù chú cùng các nghi thức thờ lạy hình tượng để đuổi quỉ.
3. Hãy mở ra Công Vụ
các Sứ Đồ 19.13-14 để thấy rõ bằng chứng về cách thực hành nầy.
4. Chúa Jêsus chỉ
ra là họ đã chấp nhận các thứ phù chú mà “các con” của họ đã ra sức
thực thi như một phần đức tin của họ, nhưng đã từ chối không chấp nhận quyền
phép trọn vẹn của Ngài thắng hơn các thế lực của ma quỉ và khả năng của Ngài chữa
lành mọi thứ tật bịnh, họ tố cáo Ngài đang làm việc cho Satan!
5. Khi một lý trí
có thành kiến, nó không nhìn thấy một điều chi tốt đẹp hết. Một số tín đồ có
thành kiến với nhà thờ hay hệ phái khác đến nỗi mọi lập luận của họ không cho
phép họ nhìn thấy một việc làm nào tốt đẹp đã được làm ra.
D. Chúa Jêsus chỉ
ra lời vu cáo của họ là loạn nghịch (các câu 28-30).
1. Vì rất là lố bịch
khi cho rằng quyền phép của của Chúa Jêsus đã ra từ Satan, Ngài nói cho họ biết
chỉ có một nguồn khả thi duy nhất mà thôi: "Thánh Linh
của Đức Chúa Trời".
2. Nếu Chúa Jêsus
đã “cậy Thánh Linh Đức Chúa Trời” mà làm công việc
của Ngài thì công việc của Ngài chính là công việc của Đức Chúa Trời và Ngài
chính là “con cháu David", là Đấng Mêsi. Nếu
Ngài thực sự là “Con cháu David” thì “Nước Đức
Chúa Trời” đã đến với họ rồi.
3. Lý do chính mà
họ đã đưa ra một sự giải thích lố bịch như thế là vì họ đã ở trong sự loạn nghịch
với Đức Chúa Trời. Các Hội thánh, những vị Mục sư, và các giáo sĩ ngày nay chắc
chắn không phải là không phạm sai lầm; tuy nhiên, hầu hết những kẻ chỉ trích họ
vì những kẻ ấy, bản thân họ đang ở trong sự loạn nghịch với Đức Chúa Trời rồi.
4. Chúa Jêsus đưa
ra một câu hỏi có tính cách thăm dò trong câu 29. Để cướp của từ "một
người mạnh sức", trước tiên người ta phải "trói
người mạnh sức" lại, Satan là kẻ "mạnh sức". Để cho một người
“cướp” lấy nước của Satan, người ấy
cần phải mạnh sức hơn, để "trói" hắn lại.
5. Rất nhiều lần,
Chúa Jêsus đã trói Satan và đã cướp lấy nhà của hắn. Ngài đã giải cứu kẻ bị quỉ
ám, đã chữa lành cho người què, kẻ bị mù, người câm điếc và tật bịnh. Thậm chí
Ngài còn làm cho kẻ chết sống lại nữa! Chúa Jêsus đã bước đi trên mọi lãnh vực
của Satan và hắn đã vô quyền không cản chi được Ngài! Tuy nhiên, với sự loạn
nghịch có trong tấm lòng của họ, người Pharisi đã từ chối không chịu tin.
6. Chúa Jêsus
phán: "Ai không ở với ta, thì nghịch cùng ta". Chúng ta không
công khai chống đối Chúa Jêsus để bị xem là “nghịch” Ngài, chúng ta chỉ
“không” ở “với” Ngài mà thôi. Nếu
quí vị không ở “với” Chúa Jêsus, quí vị đang “nghịch” lại với Chúa
Jêsus.
7. Chúa Jêsus cũng
phán: "Ai không thâu hiệp với ta, thì tan ra". Người nào không
“thâu
hiệp” với Ngài, cho dù họ không chống đối Ngài, vẫn "tan
ra" nghịch lại Ngài.
8. Chúng ta không
thể nói rằng Chúa Jêsus chỉ là một người lành, một giáo sư hay một vị lãnh đạo
thuộc linh lỗi lạc. Một là Ngài làm Vua và làm Chúa của đời sống chúng ta hoặc
không phải thế. Không có vùng đất trung lập nào hết. Một là chúng ta làm việc “với” Ngài hoặc
“nghịch” lại Ngài. Thật là tệ hại khi vẫn có một số
người “nghịch” Ngài trong danh nghĩa của tôn giáo.
III. Một tội
không thể tha thứ (các câu 31-32).
A. Chúa Jêsus tha
thứ từng tội lỗi và sự phạm thượng, trừ ra một tội (câu 31a).
1. Nhờ ân điển và
sự thương xót của Ngài, Chúa Jêsus tha thứ mọi hình thái của “tội lỗi”. Thiên đàng có những
kẻ giết người, những kẻ hư hỏng đồi trụy đã được chuộc và đã được tha thứ, họ được
định cư ở đó. Nếu Đức Chúa Trời không tha thứ cho họ, Ngài không thể tha thứ
cho chúng ta.
2. "Phạm
thượng" là một loại “tội lỗi”, nhưng cả hai được
phân ra riêng biệt trong phân đoạn nầy. Có người định nghĩa "phạm
thượng" theo cách nầy "bất kính cố ý, tội cố ý ghê khiếp
và công khai nói xấu nghịch lại Đức Chúa Trời thánh khiết hay chế giễu nhạo
báng Ngài". Những kẻ phạm thượng đã bị ném đá trong thời
kỳ Cựu Ước (Lêvi ký 24.16).
3. Chúa Jêsus phán
rằng ngay cả "phạm thượng" cũng sẽ được “tha” khi tội nhân xưng
tội và ăn năn.
a. Hãy lắng nghe
lời lẽ của sứ đồ Phaolô trong I Timôthê 1.13-14: "ta ngày trước
vốn là người phạm thượng, hay bắt bớ, hung bạo, nhưng ta đã đội ơn thương xót,
vì ta đã làm những sự đó đương lúc ta ngu muội chưa tin. Ân điển của Chúa chúng
ta đã dư dật trong ta, với đức tin cùng sự thương yêu trong Đức Chúa Jêsus
Christ”.
b. Khi Phierơ chối
Chúa Jêsus, ông đã rủa sả và đã thề thốt, đã phạm thượng với Chúa. Tuy nhiên,
Phierơ đã tìm gặp ơn tha thứ và được phục hồi.
B. Phạm thượng
nghịch lại Đức Thánh Linh thì không thể tha thứ được (các câu 31b-32).
1. Hỏi: “Lời
phạm thượng đến Đức Thánh Linh” là lời gì? Đáp: "Phạm thượng đến Đức Thánh Linh" là lời từ chối được
lặp đi lặp lại, sau khi xem xét mọi chứng cớ, cố ý bất chấp không tiếp nhận Đấng
Christ làm Chúa. Người Pharisi đã phạm
phải tội không đáng được tha thứ nầy.
2. Chúa Jêsus
phán rằng cho dù có ai "nói phạm đến Con Người, thì sẽ được
tha". Nếu do sự thiếu hiểu biết, không hiểu Ngài là ai, ai đó chối bỏ Chúa
Jêsus hoặc sử dụng danh thánh của Ngài như một sự rủa sả, người ấy vẫn có thể được
“tha”. Người ấy đã nói năng hoặc hành động mà không có sự
hiểu biết.
3. Tuy nhiên, người
nào "nói phạm đến Đức Thánh Linh" sẽ không bao giờ
được tha thứ. Tại sao? Đâu là sự khác biệt?
a. Đức Thánh Linh
mong muốn nhiều người được cứu. Ngài thuyết phục chúng ta, kêu gọi và buộc
chúng ta phải đến với Đấng Christ.
b. Khi có người
nào, sau khi nghe và hiểu biết Tin lành, đã cố tình quay mặt đi, người ấy đã phạm
thượng đến Đức Thánh Linh và bị hư mất cho đến đời đời.
4. Một
người thể ấy còn có thể được cứu không? Chúa Jêsus phán người thể ấy
“thì dầu đời nầy hay đời sau cũng sẽ chẳng được tha".
5. “Làm
sao một người biết mình ‘đã phạm thượng đến Đức Thánh Linh?’" Nếu một người vẫn
còn tìm kiếm, vẫn còn rộng mở, vẫn có lòng tin... người ấy không chối bỏ Thánh
Linh của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, người ấy chịu phục quay trở lại trước khi đi
quá xa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét