Thứ Bảy, 10 tháng 5, 2014

Bài 80: Mathiơ 23:13-33: "KHỐN CHO MUÔNG SÓI"


MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Khốn cho muông sói
Mathiơ 23:13-33

1. Kinh Thánh dạy rõ ràng rằng các cấp lãnh đạo có uy quyền thuộc linh là người phân phát đúng đắn Lời lẽ thật, họ đáng được ủng hộ và đáng tôn kính. Phaolô viết trong I Têsalônica 5:12-13: "Hỡi anh em, xin anh em kính trọng kẻ có công khó trong vòng anh em, là kẻ tuân theo Chúa mà chỉ dẫn và dạy bảo anh em. Hãy lấy lòng rất yêu thương đối với họ vì cớ công việc họ làm". I Timôthê 5:17 chép: "Các trưởng lão khéo cai trị Hội thánh thì mình phải kính trọng bội phần, nhất là những người chịu chức rao giảng và dạy dỗ". Hêbơrơ 13:17 chép: "Hãy vâng lời kẻ dắt dẫn anh em và chịu phục các người ấy, bởi các người ấy tỉnh thức về linh hồn anh em, dường như phải khai trình, hầu cho các người ấy lấy lòng vui mừng mà làm xong chức vụ mình, không phàn nàn chi, vì ấy chẳng ích lợi gì cho anh em".
2. Nếu Kinh Thánh tỏ ra sự kính trọng đối với cấp lãnh đạo thuộc linh trung tín, Kinh Thánh cũng chỉ ra sự đoán phạt nghiêm chỉnh nhất dành cho cấp lãnh đạo tôn giáo giả hình. Những người chăn bầy cần được kính nể. Muông sói phải bị xét đoán vì chúng tiêu biểu cho mối nguy hại trầm trọng nhất cho bầy chiên của Đức Chúa Trời, là Hội Thánh. Chúa Jêsus đã phán trong Mathiơ 7:15: "Hãy coi chừng tiên tri giả, là những kẻ mang lốt chiên đến cùng các ngươi, song bề trong thật là muông sói hay cắn xé".
3. Có khi dân sự của Đức Chúa Trời ngại không muốn đương đầu với sự dạy giả dối. Chúng ta ngại không muốn quở trách với tính nghiêm khắc mà Chúa Jêsus đã tỏ ra trong phân đoạn nầy. Như một kết quả, Tin lành đã bị mất đi tính thiêng liêng, sự trưởng thành về mặt thuộc linh bị đình trệ và các triết lý của con người đã được nâng lên tới vị trí của Kinh Thánh.
4. Đức Chúa Trời dành sự phán xét nghiêm ngặt nhứt của Ngài cho các cấp lãnh đạo tôn giáo giả dối, là những kẻ làm cho Tin lành phải hư đi và nhào nặn dân sự của Ngài. Khi chúng ta nghiên cứu bài giảng công khai sau cùng nầy của Chúa Jêsus, chúng ta phải công nhận giọng nói chứa đầy sự căm phẫn và nỗi buồn đau sâu sắc của Ngài. G. Campbell Morgan đã viết: "…có một giọng than vãn xuyên suốt toàn bộ bài giảng nầy, cũng y như giọng lên án sấm sét". Chúng ta nhìn thấy tính nghiêm khắc trong lời phán xét của Chúa Jêsus ở những từ ngữ "giả hình", "mù", “dại”, "rắn",  "rắn lục". Có lẽ phần mô tả đáng sợ nhất về tính nghiêm khắc trong sự phán xét của Ngài là "sự đoán phạt nơi địa ngục" hay gehenna. Vẫn có trong âm điệu của giọng nói Ngài một sự nài nĩ thương xót. Ngài đau khổ kêu lên trong câu 37: "Hỡi Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem…". Thật là thú vị khi so sánh những chữ “khốn cho” nầy.
5. Từ các câu 13-33, chúng ta sẽ xem xét 7 từ "khốn cho" hay những sự đoán phạt mà Chúa Jêsus đã tuyên bố giáng trên các cấp lãnh đạo tôn giáo giả hình trong thời của Ngài.
I. Sự đoán phạt sẽ giáng trên những ai đóng nước thiên đàng trước mặt người ta (câu 13).
A. Tám lần trong bài giảng nầy Chúa Jêsus phán: "Khốn cho các ngươi, thầy thông giáo và người Pha-ri-si". Chúng ta nhớ từ câu 1 rằng Ngài bắt đầu bằng cách phán cùng "dân chúng" cùng các môn đồ Ngài nhưng bây giờ Ngài hướng sự chú ý thiêng liêng của Ngài vào các cấp lãnh đạo tôn giáo giả hình. "Khốn cho" là tiếng thét từ trong yết hầu của sự giận dữ và đau khổ. Êsai đã kêu la: "Khốn nạn cho tôi" (Êsai 6:5). Sách Khải huyền nói tới sự phán xét hầu đến là những điều "khốn nạn". Trong kinh Yiddish người Do thái nói: "Oy veh!" Trong trường hợp nầy cách nói ấy nhắc tới sự đoán phạt chắc chắn và nhất định xảy đến.
B. Bảy lần trong bài giảng nầy Chúa Jêsus đề cập tới các cấp lãnh đạo giả dối nầy là "giả hình". Chữ nầy có ý nói tới những nghệ sĩ đeo mặt nạ. Họ xuất hiện với vai trò mà họ chẳng phải là vai trò đó. Giống như biểu tượng trong nhà hát, sống  "giả hình" là sống "hai mặt".
C. Chữ "khốn cho" hay sự đoán phạt đầu tiên nầy, sở dĩ như vậy là vì người Pharisi và các thầy thông giáo "các ngươi đóng nước thiên đàng trước mặt người ta". Chúa Jêsus còn phán sâu xa hơn thế: "các ngươi không vào đó bao giờ, mà có ai muốn vào, thì lại ngăn trở".
D. Họ "đóng nước thiên đàng" bằng cách nào? Trước tiên, họ dạy rằng sự cứu rỗi đến bằng cách tuân giữ mọi luật lệ, điều răn dạy cùng những nghi thức của họ thay vì nhờ ân điển bởi đức tin. Thứ hai, họ chống đối Chúa Jêsus và sứ điệp của Ngài ở mỗi góc độ.
E. Thí dụ, trong Mathiơ 3, Giăng Báptít đã rao giảng Tin lành, dân sự đã đến "xưng tội mình và chịu phép báp têm". Thế rồi những đầu tóc tôn giáo giả hiệu đã lộ ra, họ làm sai lệch sự dạy của Giăng rồi xây dân sự xa cách lẽ thật. Giăng nói về họ như sau: "Hỡi dòng dõi rắn lục kia, ai đã dạy các ngươi tránh khỏi cơn giận ngày sau?" (các câu 5-12).
F. Luca 11:52, một phân đoạn Kinh Thánh tương tự chép: "Khốn cho các ngươi, là thầy dạy luật, vì các ngươi đã đoạt lấy chìa khóa của sự biết, chính mình không vào, mà người khác muốn vào, lại ngăn cấm không cho!"
G. Bức tranh cho thấy dân sự thành thực đến gặp các cấp lãnh đạo thuộc linh của họ với sự tìm kiếm Đức Chúa Trời, thế nhưng các cấp lãnh đạo đã "đóng sầm" hai cánh cửa lại không cho vào Nước với sự giả hình cố quyết của họ.
H. Khi Chúa Jêsus chữa lành người mù vào ngày sabát. Họ chẳng chút quan tâm chi đến tình trạng của người mù hoặc vui mừng khi người ấy được chữa lành. Họ đã nổi giận vì Chúa Jêsus đã phạm vào những lời truyền khẩu do con người lập nên.
I. Sau ngày lễ Ngũ Tuần, khi Phierơ và Giacơ bị bắt, họ đã nói: "rằng: Chúng ta xử với hai người nầy làm sao? Vì cả dân thành Giê-ru-sa-lem đều biết rõ thật họ đã làm ra một phép lạ sờ sờ; chúng ta chối không nổi. Dầu vậy, hầu cho việc khỏi đồn ra trong dân nữa, chúng ta nên lấy lời ngăm dọa, cấm họ, từ rày về sau, chớ lấy danh đó dạy dỗ không cứ là ai" (Công vụ Các Sứ Đồ 4:16-17).
J. Phaolô đã nói về họ trong I Têsalônica 2:15-16, họ "là người đã giết Đức Chúa Jêsus và các Đấng tiên tri, đã bắt bớ chúng tôi; làm trái ý Đức Chúa Trời và thù nghịch với mọi người nữa, ngăn trở chúng tôi giảng dạy dân ngoại cho được cứu, lại hằng đầy dẫy cái lượng tội lỗi mình. Nhưng cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời sau hết đã đến trên họ".
K. Những giáo sư giả vẫn muốn làm cho tin lành bị sai lệch đi, vẫn từ chối không nhơn đức tin tiếp nhận Đấng Christ và vẫn đóng cánh cửa cứu rỗi lại đối với những người tìm kiếm sốt sắng nhất.
L. Phải cẩn thận, đừng để việc làm, thái độ hay cung cách sống của chúng ta góp phần vào việc "đóng cửa Nước thiên đàng lại" đối với nhiều người khác.
II. Sự đoán phạt sẽ giáng trên những ai lừa dối kẻ đang có cần (câu 14).
A. Kế tiếp Chúa Jêsus phán rằng sự phán xét sẽ giáng trên các thầy thông giáo và người dòng Pharisi vì họ "làm bộ đọc lời cầu nguyện cho dài mà nuốt nhà đàn bà góa".
B. Mặc dù câu nầy không thấy có trong một số bản Kinh Thánh Tân ước xưa nhất, vì câu nầy được thấy có trong Mác 12:40 và Luca 20:47, chúng ta đầy lòng tin cậy vào quyền phép của câu Kinh Thánh ấy.
C. Josephus vừa là người Pharisi vừa là một sử gia Do thái. Công việc của ông cung ứng cho chúng ta mọi điều có cần trong các thời kỳ Tân ước. Ông ghi lại một số giáo sư dạy rằng việc cung cấp tài chính cho một vị giáo sư dạy Luật sẽ đem lại nhiều ơn phước từ Đức Chúa Trời.
D. Điều nầy chắc chắn nhắc cho tôi nhớ tới hạng người rao bán tôn giáo trên vô tuyến truyền hình, họ lôi kéo mấy bà goá phụ để có được những tờ chi phiếu An Ninh Xã Hội của họ. Các cấp lãnh đạo giả hiệu lợi dụng sự cả tin để kiếm tiền.
E. Họ che đậy sự dối gạt của họ bằng cách "làm bộ đọc lời cầu nguyện cho dài" hay giống như một sự trình diễn vậy. Mấy bà goá cả tin lại thấy ấn tượng bởi hành vi giả vờ thương xót nầy rồi hiến cho họ hết thảy những gì mình có.
F. Một ý nghĩa khác có thể được thấy có nơi sự giàu có của người dòng Pharisi. Có lẽ họ đã “đọc những lời cầu nguyện dài” theo thông lệ trước đám đông, nhưng lại kín đáo tịch thu tài sản vì nợ nần và đuổi ra khỏi nhà mấy bà goá vô dụng.
G. Dù là trường hợp nào, Chúa Jêsus phán: "Các ngươi sẽ bị đoán phạt nặng hơn". Điều nầy cho thấy rằng có một sự đoán phạt cho sự chối bỏ Đấng Christ, nhưng một "sự đoán phạt nặng hơn", một cấp độ trừng phạt nặng hơn dành cho những kẻ sử dụng tôn giáo giả hình của họ để bóc lột người nghèo khó.
III. Sự đoán phạt sẽ giáng trên những ai dẫn người khác xa cách Đức Chúa Trời (câu 15).
A. Đức Chúa Trời đã dự định người Do thái phải trở thành một nguồn phước cho các dân (Sáng thế ký 12:3). Họ phải trở thành "một nước thầy tế lễ, cùng một dân tộc thánh" (Xuất Êdíptô ký 19:6). Họ phải trở thành "sự sáng cho các dân ngoại" (Êsai 49:6). Tuy nhiên, với sự kiêu ngạo, hầu hết người Do thái đều ghê tởm dân Ngoại. Giôna là một điển hình đúng về mẫu người Do thái không muốn dân Ngoại được cứu.
B. Dù vậy, suốt kỹ nguyên Tân ước, người dòng Pharisi đã khó nhọc làm việc để khiến cho người ta "cải đạo". Từ ngữ nầy có ý nói tới một người vừa chuyển sang một tôn giáo mới. Phần nhiều người dòng Pharisi đều có một lòng nhiệt thành truyền giáo hầu biến cải người khác gia nhập vào nhánh Do thái giáo của họ.
C. Một số dân Ngoại "cải đạo" ai cũng biết là "những kẻ cải đạo tại cửa thành". Điều nầy có nghĩa là họ bị cuốn vào thành Jerusalem nhưng chưa đi đủ các bước có cần để trở thành một người Do thái thực thụ. Họ được nhận biết trong Công vụ Các Sứ Đồ là "những kẻ kính sợ Đức Chúa Trời" hay "những người thờ lạy Đức Chúa Trời". Nhiều người khác trở thành "những kẻ cải theo đạo công bình". Họ tiếp nhận phép cắt bì, phép báp têm theo hình thức rồi trở thành thuộc viên được tiếp nhận trong dân giao ước của Đức Chúa Trời.
D. Nan đề là: một kẻ đạo đức giả thường sản sinh ra những kẻ đạo đức giả lớn hơn. Chúa Jêsus phán họ lao tới cực điểm "các ngươi đi khắp dưới nước trên bộ để khuyên một người vào đạo mình" nhưng khi họ hoá đạo người ấy, thay vì dẫn người ấy vào mối tương giao phải lẽ với Đức Chúa Trời, họ đã dẫn người ấy càng xa cách Đức Chúa Trời thêm! Chúa Jêsus phán: "các ngươi làm cho họ trở nên người địa ngục gấp hai các ngươi".
E. Từ ngữ "địa ngục" ra từ chữ gehenna, một trũng ở bên ngoài thành Jerusalem, ở đó đồ phế thải phải bị thiêu đốt đi. Những kẻ thờ lạy thần Moloch đã dâng những của lễ con người tại đó. Vua Giôsia đã tuyên bố nó ô uế và nó trở thành nơi đổ rác và liên tục bị thiêu đốt. Đây là ẩn dụ của Chúa Jêsus  rất thông thường về địa ngục.
F. Quí vị há chẳng vui sướng khi có ai đó đưa quí vị đến gần với Đức Chúa Trời thay vì dẫn quí vị đi cách xa Ngài? Mỗi Cơ đốc nhân cần phải đưa người ta đến với Đấng Christ.
IV. Sự đoán phạt sẽ giáng trên những ai ích kỷ làm sai hỏng lẽ thật (các câu 16-22).
A. Hãy chú ý trong câu 16 rằng Chúa Jêsus xoay từ phần mô tả quen thuộc "kẻ giả hình" sang việc gọi người Pharisi là "kẻ mù dẫn đường". Ngài gọi họ bằng cụm từ nầy vì họ đang hướng dẫn dân sự mà bản thân họ chẳng nhìn biết lẽ thật.
B. Sự thật cho thấy rằng họ đã bị "" đối với lẽ thật trong Kinh Thánh, được nhận thấy qua cách họ làm sai lệch Kinh Thánh. Thí dụ, Chúa Jêsus chỉ ra trong câu 16 rằng có một người lập lời thề dâng hiến một số tiền. Nếu người đó "chỉ đền thờ mà thề" người ấy có thể đổi ý vì theo nhận định của họ "thì không can chi". Nếu người ấy "chỉ vàng của đền thờ" mà thề, thì người ấy phải mắc lời thề. Đây là một cách để nhận ra sự kỉnh kiền.
C. Với tình cảm bao la, Chúa Jêsus hỏi: "vàng, và đền thờ làm cho vàng nên thánh, cái nào trọng hơn?" Vàng được tuyên bố là thánh vì nó là một phần của đền thờ. Họ đã lập ra những sự phân biệt mà Lời Đức Chúa Trời chưa hề lập ra. Cũng thực như thế với việc thề thốt của họ khi "chỉ bàn thờ" hay chỉ "của lễ trên bàn thờ" (các câu 18-20).
D. Nếu quí vị "chỉ bàn thờ" mà thề, quí vị thực sự đang "chỉ Ngài là Đấng đang ngự nơi đền thờ" mà thề. Nếu quí vị "chỉ trời" mà thề, quí vị thực sự đang chỉ "ngôi của Đức Chúa Trời và Đấng ngự trên ngôi mà thề vậy".
E. Chúng ta cần phải nói rằng: phải, phải, không không. Chúng ta không cần phải làm sai lệch sự thực, mà phải trở thành người giữ lời nói của mình (Mathiơ 5:33-37).
F. Một số Cơ đốc nhân sa vào bẫy giảng dạy của họ, họ hay "nghĩ thế" thay vì "biết rõ như thế". Chúng ta có thể dễ dàng nâng mọi sự lý giải của chúng ta lên cao thay vì Ngôi Lời.
V. Sự đoán phạt sẽ giáng trên những ai phóng to cái nhỏ và không biết điều chi là quan trọng (các câu 23-24).
A. Dâng phần mười là phần quan trọng trong bổn phận tôn giáo của người dòng Pharisi. Họ đã vượt quá phạm trù luật nông nghiệp đến khu vườn trồng các thứ gia vị dùng trong bếp của họ. Họ đếm theo nghi thức từng chiếc lá “bạc hà” thứ mười  và từng hột giống “hồi hương và rau cần” thứ mười.
B. Họ vượt quá luật pháp ở chỗ nhỏ nhất, mà "bỏ điều hệ trọng hơn hết" tỉ như "sự công bình, thương xót và trung tín". Họ đếm các thứ hột giống nhưng lại đuổi mấy bà goá phụ ra khỏi nhà.
C. Với những thái độ như thế, Chúa Jêsus phán họ "lọc con ruồi nhỏ mà nuốt con lạc đà". Họ lọc rượu của họ bằng hàm răng hầu cho không bị ô uế theo nghi thức bằng cách tình cờ nuốt con ruồi, nhưng nuốt trọng cả con lạc đà của tấm lòng và linh hồn của Lời Đức Chúa Trời.
D. Hệ thống thờ lạy hình tượng ai cũng biết nó bám chặt vào các chi tiết dường như là vô nghĩa. Tuy nhiên, có nhiều Cơ đốc nhân quan tâm tới bề ngoài của một người hơn là quan tân đến linh hồn của người ấy. Có nhiều người quan tâm đến các quan điểm tiên tri dễ đem đến sự tranh cãi hơn là lo rao giảng Tin lành!
VI. Sự đoán phạt sẽ giáng trên những ai có lối sống ích kỷ (các câu 25-26).
A. Chúa Jêsus mô tả họ là "chén và mâm" rửa ở bề ngoài, còn bề trong thì đầy dẫy "sự ăn cướp cùng sự quá độ".
B. Bức tranh đang vạch ra một địa điểm xinh đẹp ở trước mặt một vị khách, nhưng đĩa thức ăn thì đầy thứ thối rửa!
C. "Sự ăn cướp" không những có ý nói tới sự họ ăn nuốt "nhà của đờn bà goá", mà còn ăn nuốt cả mọi thứ đút lót qua hệ thống đồi bại của đền thờ. Nó còn có nghĩa là lấn lướt dân sự.
D. "Sự quá độ" có ý nói tới sự thoả mãn lòng mong muốn không kềm chế được. Họ chẳng có chút lương tâm gì trong các vụ việc nầy. Họ không chần chừ khi sử dụng ảnh hưởng của họ để làm cho tràn đầy cái túi không đáy của họ.
VII. Sự đoán phạt sẽ giáng trên những ai làm hư hỏng người khác (các câu 27-28).
A. Chúa Jêsus còn phán thêm, người dòng Pharisi cùng các cấp lãnh đạo khác "giống như mồ mả tô trắng". Từ bề ngoài, họ trông "xinh đẹp" nhưng họ "thì đầy xương người chết và mọi thứ dơ dáy" ở bên trong.
B. Các sử gia Do thái tỏ ra rằng trước Lễ Vượt Qua, cư dân thành Jerusalem làm cho bề mặt của thành phố rất là đẹp. Một phương án như thế phải làm cho hết thảy những mồ mả một chiếc áo choàng tươi mới màu vôi trắng. Lý do: ấy là chúng sẽ dễ dàng được nhận ra và không một lữ khách nào đụng đến chúng mà bị ô uế theo phần nghi thức.
C. Mặc dù họ khoác áo màu trắng và sạch sẽ ở bề ngoài, họ "chan chứa sự giả hình" ở trong, họ là những kẻ có hai mặt. Hơn nữa, họ "chan chứa …tội lỗi". Điều nầy có ý nói tới người nào biết luật pháp của Đức Chúa Trời mà cố ý phá vỡ chúng.
D. Là một lữ khách người Do thái sẽ bị ô uế do chạm đến mồ mả trong kỳ Lễ Vượt Qua, các cấp lãnh đạo giả hình nầy đã làm ô uế từng người mà họ chạm đến.
VIII. Sự đoán phạt sẽ giáng trên những ai bắt bớ người công bình (các câu 29-33).
A. Sau hết Chúa Jêsus phán "khốn cho" vì các cấp lãnh đạo giả hình, vì họ "xây đắp mồ mả của đấng tiên tri, trau giồi mồ mả của người công bình". Họ nói rằng nếu họ sống sớm hơn, họ sẽ chẳng xử tệ với "các tiên tri" đâu.
B. Chúa Jêsus phán họ đang làm chứng nghịch lại bản thân họ, vì họ hiện đang hoạch định cái chết của Đấng Mêsi, là Đấng mà các tiên tri đều đã loan báo trước rồi.
C. Ngài phán: "Vậy thì hãy làm cho đầy dẫy cái lường của tổ phụ các ngươi!" Ngài muốn nói: "Hãy đi và làm theo mọi điều mà các ngươi muốn làm".
D. Tuy nhiên, Ngài không để cho họ ra đi mà không có lời cảnh báo. Ngài sử dụng các hình ảnh "loài rắn" gây chết chóc và "dòng dõi rắn lục" là loài tìm cách trốn chạy ngọn lửa của nhà nông đang thiêu đốt đồng ruộng của mình. Họ sẽ chẳng hề "tránh khỏi sự đoán phạt nơi địa ngục được?"

***


Bài 79: Mathiơ 23:1-12: "NHẬN BIẾT NGƯỜI CHĂN TỪ BẦY SÓI"


MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Nhận biết Người Chăn từ bầy sói
Mathiơ 23:1-12

1. Một trong những lẽ đạo chính của Tân Ước là bảo hộ người tín đồ thật tránh được sự dạy giả dối. Những vị giáo sư chân chính, có uy quyền về Lời Đức Chúa Trời thường được nhắc đến trong hình ảnh người chăn chiên. Chính mình Chúa Jêsus là "Đấng Chăn Chiên Trưởng" (I Phierơ 5:4), còn quí Mục sư và các cấp lãnh đạo khác cần phải "…giữ lấy mình,…luôn cả bầy mà Đức Thánh Linh đã lập anh em làm kẻ coi sóc, để chăn Hội thánh của Đức Chúa Trời, mà Ngài đã mua bằng chính huyết mình" (Công vụ Các Sứ đồ 20:28). Trong Giăng 10, Chúa Jêsus tự ví bản thân Ngài là "Đấng Chăn Hiền Lành" với kẻ "chăn thuê" là những người chẳng quan tâm chi đến bầy chiên rồi bỏ trốn lúc gặp phải nguy hiểm.
2. Trong đối chiếu, những giáo sư giả thường được mô tả là muông sói, chúng đến vây hãm và ăn nuốt bầy chiên. Chúa Jêsus phán trong Mathiơ 7:15: "Hãy coi chừng tiên tri giả, là những kẻ mang lốt chiên đến cùng các ngươi, song bề trong thật là muông sói hay cắn xé". Phaolô đã nói với các trưởng lão thành Êphêsô trong Công vụ Các Sứ đồ 20:29: "Còn tôi biết rằng sau khi tôi đi sẽ có muông sói dữ tợn xen vào trong vòng anh em, chẳng tiếc bầy đâu". Hầu hết mỗi sách trong Tân Ước đều chứa một lời cảnh báo về muông sói, là các cấp lãnh đạo tôn giáo giả.
3. Từ tháp Babên cho đến các thuật sĩ người Ai cập, đến các giáo sư giả của Israel, Cựu Ước cũng nói tới muông sói nữa. Đức Chúa Trời phán qua Êxêchiên: "Khốn cho những tiên tri dại dột, theo thần riêng mình, mà chưa từng thấy gì cả!" (Êxêchiên 13:3). Cũng có nhiều người chạy theo thần riêng mình, chớ không bước theo Thánh Linh và dù họ xưng mình có khải thị song chẳng thấy chi hết trừ những đồng đôla.
4. Kinh Thánh dạy rõ ràng rằng khi sự Tái lâm hầu gần, các giáo sư giả sẽ thêm lên nhiều. I Timôthê 4:1 chép: "Vả, Đức Thánh Linh phán tỏ tường rằng, trong đời sau rốt, có mấy kẻ sẽ bội đạo mà theo các thần lừa dối, và đạo lý của quỉ dữ". II Phierơ 2:1 chép: "Dầu vậy, trong dân chúng cũng đã có tiên tri giả, và cũng sẽ có giáo sư giả trong anh em; họ sẽ truyền những đạo dối làm hại, chối Chúa đã chuộc mình, tự mình chuốc lấy sự hủy phá thình lình". Sách Khải huyền nói trước rằng thế gian sẽ lên tới cực điểm trong Kỳ Đại Nạn, khi ấy có cả anti-Christ cùng tiên tri giả của hắn nữa. Những lời cảnh báo trong Kinh Thánh về các tiên tri giả chưa bao giờ có cần hơn lúc bây giờ!
5. Mathiơ 23 là một bài giảng mà Chúa Jêsus đã ban phát ra ở cuối một ngày dài đấu khẩu với các cấp lãnh đạo tôn giáo. Sứ điệp được nói trực tiếp với "dân chúng và môn đồ” (câu 1) nhưng không nghi ngờ chi nữa, các cấp lãnh đạo tôn giáo đều ở trong tầm nghe thấy. Thật thú vị thay, đây là sứ điệp sau cùng của Chúa Jêsus dành cho dân Israel. Ngài sẽ không còn phán với họ nữa.
6. Từ các câu 1-12, chúng ta sẽ xem xét năm đặc điểm của các cấp tôn giáo giả và hai thuộc tính của các cấp lãnh đạo thuộc linh chân chính.
I. Những đặc điểm của các cấp lãnh đạo tôn giáo giả (các câu 1-7).
A. Các cấp lãnh đạo giả chẳng có uy quyền chi hết (các câu 1-2).
1. Khi Chúa Jêsus đứng trước "dân chúng và…môn đồ" Ngài phán về "các thầy thông giáo và người Pharisi". Trong khi tất cả các học viên Kinh Thánh đều quen thuộc với những nhóm lãnh đạo tôn giáo nầy, William Barclay chỉ ra rằng kinh Talmud nói tới 7 loại Pharisi.
· Người "Pharisi với đôi vai" là hạng người đặt mọi việc lành của họ lên hai vai mình cho người khác xem thấy. Họ thường đi tới đi lui trong bụi đất với dáng vẽ buồn rầu để tiêu biểu cho lòng mộ đạo của họ.
· Người “Pharisi phục dịch", họ phát triển một khả năng khéo léo làm những việc lành cách từ từ. Bức bình phong của họ là những lời bào chữa đạo đức giả.
· Người "Pharisi bị bầm dập và chảy máu" được đặt tên như thế vì họ lẫn tránh những cám dỗ về tư dục bằng cách nhắm mắt mình lại đối với phụ nữ để họ có thể chạy vào những cánh cửa, những đồn trạm và các đối tượng khác. Được lắm, quí vị có thể nói ai đang tranh đấu với sự cám dỗ!
· Người "Pharisi nhào lộn có lưng gù" đã đi đứng theo kiểu lưng còng để tỏ ra tính cách thuộc linh của họ. Họ thường gập mình xuống.
· Người "Pharisi lúc nào cũng tìm kiếm" giữ những thành tích rất tỉ mỉ về mọi việc lành của họ để quyết định xem Đức Chúa Trời mắc nợ họ phần thưởng nào.
· Người "Pharisi e sợ" rao truyền  sự kinh khủng của địa ngục làm động lực.
· Cuối hết, người Pharisi "kính sợ Đức Chúa Trời" thực sự kính sợ Đức Chúa Trời và tìm cách làm đẹp lòng Ngài. Nicôđem chắc chắn thuộc về nhóm người nầy.
2. Chúa Jêsus phán: "Các thầy thông giáo [cấp lãnh đạo nhà hội] và người Pharisi đều ngồi trên ngôi của Môise". "Ngôi" ra từ chữ kathedra từ đó chúng ta có chữ "thánh đường” (cathedral). Từ ngữ nầy có ý nói tới ngôi quyền phép của sự truyền đạo. Các trường đại học đều có loại "ghế" của bộ môn khác nhau. Khi Giáo Hoàng nói trong vai trò uy quyền truyền giáo của mình, người nói từ chỗ ex cathedra (chấp hành quyền bính).
3. "Môise" là đấng ban luật pháp, là phát ngôn viên tối cao của Đức Chúa Trời cho dân Israel. Vì lẽ đó, "ngồi trên ngôi Môise" có nghĩa là nói thay cho Đức Chúa Trời. Các cấp lãnh đạo giả dối nầy đã xưng nhận vai trò đó là của mình.
4. Một vấn đề đã làm cho các vị lãnh đạo nầy phải tức điên lên là uy quyền của Chúa Jêsus trên dân chúng. Mathiơ 7:29 chép: "vì Ngài dạy như là có quyền, chớ không giống các thầy thông giáo”. Ngay cả những tên vô lại không có ăn học trong đám đông cũng nhận ra quyền phép trong sự dạy của Ngài.
5. Giống như nhiều cấp lãnh đạo tôn giáo giả ngày nay, các thầy thông giáo và người dòng Pharisi chẳng có uy quyền ấy. Đức Giêhôva phán qua tiên tri Giêrêmi: "Ấy là những lời nói dối, mà các tiên tri đó nhơn danh ta truyền ra. Ta chẳng từng sai họ đi, chẳng từng truyền lịnh và chẳng từng phán cùng họ. Họ nói tiên tri đó là theo những sự hiện thấy giả dối, sự bói-khoa, sự hư không, và sự lừa-gạt bởi lòng riêng mình!" (Giêrêmi 14:14).
6. Tôi tin có một sự phán xét đặc biệt dành cho những kẻ trục lợi tôn giáo, là những kẻ buôn bán những sự hiện thấy cùng các lời tiên tri giả dối của họ qua "sự lừa gạt bởi lòng riêng mình".
7. Tôi tin có một số người nghĩ họ chiêm bao thấy những khải thị cùng thấy những sự hiện thấy có tính tiên tri. Tại sao phải phấn đấu cho khải thị đặc biệt khi chúng ta không vâng theo sự khải thị trọn vẹn của Đức Chúa Trời trong quyển Kinh Thánh của chúng ta!?!
8. Giống như Chúa Jêsus, là tiên tri thật phán dạy với ý thức về uy quyền chân chính. Thẩm quyền không được ban cho ở trong Ngài, mà trong sự trung thành với Kinh Thánh nơi cách phân tích Ngôi Lời. Đức Thánh Linh tán thưởng về điều nầy!
B. Các cấp lãnh đạo giả dối  không có SỰ NGAY THẲNG (câu 3).
1. Trong câu 3, Chúa Jêsus bảo dân chúng "hãy làm và giữ theo" những điều mà các cấp lãnh đạo tôn giáo đã bảo họ. Wow? Dường như có sự mâu thuẫn ở đây. Không phải là mâu thuẫn đâu. Ngài đang cảnh cáo chống lại việc quăng con trẻ sơ sinh vào bễ nước đấy.
2. Khi một giáo sư giả đọc Lời của Đức Chúa Trời, thì Lời Đức Chúa Trời vẫn là Lời Đức Chúa Trời. Chúa Jêsus đang phán rằng khi họ nói ra lẽ thật của Đức Chúa Trời, dân chúng cần phải "làm và giữ theo" lẽ thật ấy.
3. Tuy nhiên, Ngài nói thêm, "nhưng đừng bắt chước việc làm của họ, vì họ nói mà không làm”. Họ là những tay thuộc linh dõm, họ biết cách nói năng thật kỉnh kiền nhưng không làm theo những điều họ rao giảng.
4. Đây là thế chẳng đặng đừng rất nghiêm trọng trong việc giảng dạy Ngôi Lời, cần phấn đấu để trước sau phải như một. Có một trách nhiệm phải giải trình rất lớn trong việc trở thành một vị giáo sư. Giacơ 3:1 chép: "Hỡi anh em, trong vòng anh em chớ có nhiều người tự lập làm thầy, vì biết như vậy, mình sẽ phải chịu xét đoán càng nghiêm hơn".
5. Ngay cả giáo sư tin kính nhất trong các giáo sư dạy Kinh Thánh đều có những nhược điểm trong chiếc áo giáp của họ. Người tốt nhứt trong số người thuộc về Đức Chúa Trời đều có những thói tật chỉ được tỏ ra bởi sự thử nghiệm sát sao. Hết thảy chúng ta đều có hai bàn chân bằng đất sét. Điều nầy thường làm cho tôi thấy nãn lòng. Giờ đây tôi trông chờ sự thử nghiệm đó.
6. Chúa Jêsus có một việc trong trí rất dứt khoát ở đây. Ngài không nói tới người tin kính nào đang vấp ngã ở chỗ nầy chỗ kia, mà Ngài đang nói tới người chưa được chuộc, họ chuyên nói một việc nhưng lại làm một việc khác.
7. Các thầy thông giáo và người Pharisi nầy đều bị H-Ư-M-Ấ-T, HƯ MẤT! Họ làm theo xác thịt và KHÔNG THỂ làm phu phỉ luật pháp của Đức Chúa Trời. Cấp lãnh đạo tôn giáo không được cứu có thể tìm cách vâng theo Đức Chúa Trời rất chân thành, nhưng được chuộc thì quả là khó lắm.
8. Giuđe 13-14 chép: "Họ như đám mây không nước, theo gió đưa đi đây đi đó, như cây tàn mùa thu, không có trái, hai lần chết, trốc lên bựt rễ; như sóng cuồng dưới biển, sôi bọt ô uế của mình; như sao đi lạc, sự tối tăm mù mịt đã dành cho chúng nó đời đời!”
C. Các cấp lãnh đạo giả dối không có lòng thương xót (câu 4).
1. Không những các cấp lãnh đạo tôn giáo giả dối nầy rõ ràng là giả hình, mà họ còn khó thương và chẳng quan tâm gì đến những kẻ mà họ dâng mình để phục vụ nữa.
2. Chúa Jêsus phán: "Bọn ấy buộc những gánh nặng khó chịu, để trên vai người ta,…". Nhìn thấy một con lừa hay lạc đà chồng chất gánh nặng là cảnh thường thấy trong thời buổi ấy, chúng phấn đấu và vấp ngã dưới gánh nặng trong khi người chủ đi bên cạnh mà chẳng mang lấy một thứ gì. Cũng một thể ấy Chúa Jêsus phán: "…còn mình thì không muốn động ngón tay vào".
3. Các thầy thông giáo và người dòng Pharisi đã chất "những gánh nặng" các nghi thức tôn giáo, những luật lệ và tập tục của họ trên dân chúng mà chẳng động gì đến việc nhấc một ngón tay lên để cứu giúp họ mang lấy tất cả gánh nặng đó. Tôn giáo của tuyển dân Đức Chúa Trời đã trở thành trì trệ và không thể mang nổi.
4. Người Pharisi dạy rằng nếu các việc lành của quí vị nặng hơn những việc ác, Đức Chúa Trời sẽ tiếp nhận quí vị vào trong thiên đàng. Khi dân sự vấp ngã dưới luật lệ theo pháp luật của họ, các cấp lãnh đạo sẽ đánh họ bằng cây roi tội lỗi.
5. Thật là sảng khoái dường bao khi nghe Chúa Jêsus phán: "Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của ta, và học theo ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ. Vì ách ta dễ chịu và gánh ta nhẹ nhàng" (Mathiơ 11:28-30). Mathiơ 9:36 chép: "…Khi Ngài thấy những đám dân đông, thì động lòng thương xót, vì họ khốn cùng, và tan lạc như chiên không có kẻ chăn".
6. Chức vụ thật luôn luôn động lòng thương xót. Những người chăn thật không ăn nuốt bầy chiên. Phaolô viết trong I Têsalônica 2:7-9: "Nhưng chúng tôi đã ăn ở nhu mì giữa anh em, như một người vú săn sóc chính con mình cách dịu dàng vậy. Vậy, vì lòng rất yêu thương của chúng tôi đối với anh em, nên ước ao ban cho anh em, không những Tin Lành Đức Chúa Trời thôi đâu, song cả đến chính sự sống chúng tôi nữa, bởi anh em đã trở nên thiết nghĩa với chúng tôi là bao. Hỡi anh em, anh em còn nhớ công lao, khó nhọc của chúng tôi; ấy là trong khi chúng tôi giảng Tin Lành cho anh em, lại cũng làm việc cả ngày lẫn đêm, để cho khỏi lụy đến một người nào trong anh em hết".
D. Các cấp lãnh đạo giả dối không có tính thuộc linh (câu 5).
1. Động lực của quí vị trong sự phục vụ là động lực nào? Tại sao quí vị đến với Hội thánh? Tại sao quí vị dấn thân vào công cuộc truyền giáo? Tại sao quí vị dâng tiền bạc, thì giờ và mọi khả năng của mình? Chúa Jêsus Đấng Toàn Tri chỉ ra rằng các cấp lãnh đạo tôn giáo giả dối "làm việc gì cũng cố để cho người ta thấy".
2. Không giữ ý tứ, họ và những người đương nhiệm với họ ngày nay đang làm mọi sự cho một cuộc trình diễn bề ngoài hơn là nỗi ao ước ở bên trong. Họ rất ích kỷ lo ấp ủ cái tôi của họ thay vì phải vô kỷ hầu việc Đức Chúa Trời và tha nhân. Họ chẳng thích thú gì với sự tin kính mà chỉ thích những dáng dấp bên ngoài mà thôi. Cuối cùng, họ đang làm những điều vì sự vinh hiển riêng của họ, chớ không vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.
3. Chúa Jêsus đã nói ra lẽ thật nầy rồi khi Ngài phán dạy trong Mathiơ 6:1: "Hãy giữ, đừng làm sự công bình mình trước mặt người ta, cho họ đều thấy. Bằng không, thì các ngươi chẳng được phần thưởng gì của Cha các ngươi ở trên trời".
4. Ở đây Chúa Jêsus phán rằng họ "mang cái thẻ bài da cho rộng (lớn, dễ thấy)". "Thẻ bài da" là những cái hộp nhỏ đeo trên trán, trong đó có những câu Kinh Thánh, một sự giải thích cao độ Xuất Êdíptô ký 13:9 cùng các câu Kinh Thánh khác.
5. Ngài cũng phán họ "xủ cái tua áo cho dài". Họ thêm nhiều tua dài vào đường viền áo của họ như một sự nhắc nhớ đến các điều răn của Đức Chúa Trời. Ngay cả Chúa Jêsus cũng đã mặc lấy áo có tua như thế. Tuy nhiên, người Pharisi đã làm cho chúng lớn thêm để lôi kéo sự chú ý của người ta, chớ không chú ý vào các điều răn.
6. Người Pharisi là bậc thầy của việc thể hiện về mặt thuộc linh. Họ cầu nguyện lớn tiếng trên các góc  đường phố, mặc áo dài theo kiểu cách phân biệt, và biểu lộ ra họ đang kiêng ăn bằng cách bao phủ mình bằng tro bụi … để cho nhiều người khác nhìn thấy. Chúa Jêsus nói thẳng về họ: "Quả thật, ta nói cùng các ngươi, bọn đó đã được phần thưởng của mình rồi" (6:2).
E. Các cấp lãnh đạo giả dối chẳng có sự khiêm nhường (các câu 6-7).
1. Chúa Jêsus phán: "Họ ưa ngồi đầu trong đám tiệc". Bản ngã của họ thúc giục họ phải giành lấy những chỗ ngồi tại bàn danh dự. Họ ưa thích chỗ trung tâm của sự chú ý. Gần như tôi chưa bao giờ ngồi ở một bàn đầu giống như thế!
2. Họ cũng "thích ngôi cao nhất trong nhà hội". Trong loại nhà dùng để thờ phượng nầy có một phần nền nhô cao lên, quí giáo sư quan trọng sẽ an toạ ở đó. Điều nầy không khác gì đối với quí Mục sư cùng các cấp lãnh đạo Hội thánh họ đang ngồi trên “ngôi” ở phần nền đó rồi nhìn xuống dân sự. Tôi đang ngồi ở hàng ghế đầu để tôi có thể thờ phượng, chớ không phải để nhìn xuống quí vị đâu!
3. Họ "muốn người ta chào mình giữa chợ, và ưng người ta gọi mình bằng thầy [rabi]!" Họ muốn được công nhận và tôn kính bởi tước phẩm đặc biệt của họ. Chữ La tinh tương đương với "Rabi" là chữ từ đó chúng ta có từ "doctor" [bác sĩ]. Tôi có sự kính trọng dành cho người nào học giỏi và chịu khó để đạt được danh hiệu "bác sĩ", nhưng tôi không thích khi tước hiệu ấy được đem ra phô trương.
II. Các thuộc tính của cấp lãnh đạo thuộc linh chân thật (các câu 8-12).
A. Cấp lãnh đạo thuộc linh chân thật rất khiêm nhường (các câu 8-10).
1. Chúa Jêsus phán cùng chúng ta: "Đừng chịu người ta gọi mình bằng Thầy" vì chỉ có “một Thầy”, Ngài là “Thầy” của chúng ta. Chúng ta không cần những tước hiệu quá kiêu căng vì hết thảy chúng ta là "anh em".
2. Hơn nữa, chúng ta không cần phải gọi "người nào ở thế gian là cha mình". Tất nhiên Chúa Jêsus đang nói theo ý nghĩa thuộc linh. "Cha" là một tước hiệu khác cho thấy đó là người Pharisi. Chúng ta có “một Cha”, Cha chúng ta đang "ở trên trời".
3. Chúa Jêsus cũng nói thêm chúng ta đừng để ai gọi mình là "chủ" hay lãnh đạo vì "Đấng Christ" đã giữ lấy địa vị đó rồi.
4. Khi chúng ta sử dụng sai các tước hiệu ấy, chúng ta đang nâng cao những người nam người nữ được ơn, chúng ta đang đặt một lằn ranh giữa họ và dân chúng ngồi trên mấy hàng ghế kia và khiến cho người ta phải dành cho họ sự vinh quang chỉ đáng dành cho Đức Chúa Trời mà thôi.
B. Cấp lãnh đạo thuộc linh chân thật là hạng tôi tớ (các câu 11-12).
1. Một lần nữa Chúa Jêsus nói ra thành ngữ: "Song ai lớn hơn hết trong các ngươi, thì sẽ làm đầy tớ các ngươi". Không có chuyện "tôi là lớn""quí vị là nhỏ" trong Nước thiên đàng đâu! Nếu chúng ta muốn được nên giống như Chúa Jêsus, chúng ta phải trở nên cấp lãnh đạo có tâm tình của hạng tôi tớ, là người sẵn lòng chịu rửa chơn cho từng người khác.
2. Sau cùng Chúa Jêsus phán: "Kẻ nào tôn mình lên thì sẽ bị hạ xuống, còn kẻ nào hạ mình xuống thì sẽ được tôn lên". Để đạt được sự cao trọng, thực sự chúng ta phải hạ mình xuống.

***