MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Học
biết cách yêu thương
Mathiơ 7.6-12
1. Randy Spencer kể lại
tình cảm của con gái mình với mấy con búp bê. Bản thân tôi là cha của hai đứa
con gái nhỏ, tôi có thể sẵn lòng đồng hoá với cảm tính của ông. Giữa hai cô con
gái, chúng tôi có khoảng ba tá búp bê đủ cở, hình dáng và năng khiếu khác nhau.
Spencer nói: "Ngày nay, qua
kỹ thuật hiện đại, một bé gái không nhất thiết phải hài lòng với mấy con búp bê
câm, không có sự sống, mà có thể kinh nghiệm được cảm giác việc sở hữu một mô
hình có sự sống hay một em bé có thể đi, đứng, uống nước, nháy mắt, nhai nuốt,
ợ, kêu khóc, thở dài và bật tiếng lên
cười – gần như bất cứ điều chi một em bé thực sự làm được, kể cả tự nó tè dầm
và quấn tả lót”. Ông tiếp tục nói rằng sau 10 năm trời mua
sắm loại búp bê chất lượng cao như thế, ông muốn biết con búp bê nào là búp bê mà con gái ông
ưa thích nhất. Ông tìm ra đó là một con búp bê nhỏ rách mướp mà nó có được
trong ngày sinh nhật thứ ba của nó. Ông viết: "Hết thảy mấy con búp bê khác đều bị bỏ qua một bên, còn con búp bê
xơ xác nầy đã khiến nó đem lòng yêu mến. Mấy con búp bê khác đã bắt lấy ánh mắt
của nó, còn con búp bê rách mướp kia thì bắt lấy tấm lòng của nó".
Ông ta tiếp tục nói: "Chúng ta
cũng thường giống như loại búp bê chất lượng cao kia của con gái tôi. Chúng ta
tìm cách gây ấn tượng nơi người khác với tài khéo, học vấn, cách ăn nói, hay
kiểu cách, đủ thứ hết.... Còn tình cảm thì không có – đây là phần thưởng cho sự
trình diễn hay thành tựu. Bạn không phải ca hát, dạy dỗ, rao giảng hay cầu
nguyện đủ để được yêu thương. Người ta sẽ không yêu thương chúng ta vì những gì
chúng ta làm, mà đúng hơn vì chúng ta là ai".
2. Một Hội Thánh hiệp một
trong trong sự kính sợ Chúa là một niềm vui rất lớn cho vị Mục sư Chủ tọa. Tôi
là một thuộc viên trong vài Hội Thánh nhưng không một nhà thờ nào tỏ ra tinh
thần yêu thương mà Hội Thánh nầy đang tỏ ra. Những tân tín hữu thường nhận xét
với tôi về tinh thần yêu thương, sự tiếp đón chân thành và lòng mến khách mà họ
cảm thấy khi họ đến viếng giữa vòng chúng tôi.
3. Bạn có biết rằng tình
yêu không phải là một thái độ cũng như nó là một hành động không? Yêu là một
động từ! I Côrinhtô 13 được gọi là Chương yêu thương quan trọng nhất trong
cả Kinh Thánh. Mỗi câu nói trong toàn bộ 16 câu nói về tình yêu đều là động
từ trong bản Tân ước tiếng Hy lạp. Vì
chúng ta yêu tha nhân, chúng ta sẽ hành động theo tình yêu đó. Mathiơ 7.12 cung
ứng cho chúng ta một nguyên tắc quan trọng phải noi theo: "Ấy vậy, hễ
điều chi mà các ngươi muốn người ta làm cho mình, thì cũng hãy làm điều đó cho
họ".
4. Trước khi nhắm vào phân
đoạn Kinh Thánh ngày hôm nay, chúng ta hãy ôn lại nội dung một chút.
A. Tiểu đoạn nầy đang nhắm tới phần cuối của phân đoạn mà chúng ta đã
biết là Bài Giảng Trên Núi. Bắt đầu ở chương 5, chúng
ta đang nhìn thấy thể nào Chúa Jêsus đã ngồi với đám dân đông trong vùng đồi
núi quanh xứ Galilê. Các chương nầy cung ứng Bản Tuyên Ngôn của Ngài, các
nguyên tắc sống của Vương quốc. Ngài thường chế nhạo thứ tôn giáo giả tạo, thái
độ mộ đạo giả dối của thầy thông giáo và người dòng Pharisi.
B. Có lẽ sự khó nhăn nhiều nhất khi áp dụng mọi sự dạy của Chúa Jêsus là
5 câu đầu tiên của chương 7. Chúa Jêsus phán: "Các ngươi đừng đoán
xét ai, để mình khỏi bị đoán xét". Loại xét đoán mà Chúa Jêsus
đã có trong trí ở đây ấy là đưa ra sự kết án, gắn nhãn hiệu hay phân loại ai đó
không đúng đắn. Chúng ta có khuynh hướng xét đoán người ta dựa theo...CÁCH ĂN MẶC,
TÓC TAI, MÀU DA, XE CỘ, NHÀ CỬA...
C. Để mô tả toàn bộ sự bất công của việc đưa ra sự xét đoán lẫn nhau,
Chúa Jêsus đưa ra phép ẩn dụ nói tới ai đó với một "cây
đà" lòi ra ngoài con mắt của người đó, trong khi người đó đang xét đoán con
mắt của người khác đang có một “cái rác” nhỏ.
D. Chìa khoá cho việc hiểu biết lý do tại sao chúng ta thường tỏ ra loại
thái độ xét đoán là hiểu biết những gì “cái rác” tiêu biểu cho.
Đó là tình trạng thiếu yêu thương dành cho người khác. Nhu cần lớn lao nhất
giữa vòng dân sự Đức Chúa Trời hôm nay là phải học biết yêu thương nhau.
3. Trong phân đoạn Kinh
Thánh hôm nay, Chúa Jêsus chia sẻ ba hình ảnh dạy chúng ta về sự yêu thương lẫn
nhau.
I. LOÀI CHÓ,
NGỌC TRAI & BẦY HEO: Yêu thương đòi hỏi SỰ PHÂN BIỆT (câu 6).
A. Dân sự của Đức Chúa Trời cần phải trở thành một dân biết phân biệt.
1. Khi Chúa Jêsus dạy chúng ta "đừng xét đoán" Ngài có ý nói
rằng chúng ta đừng trở thànnh hạng người hay chỉ trích, phê phán ngồi trong chỗ
xét đoán lẫn nhau. Ngài không có ý nói chúng ta đang trở thành loại thảm chùi
chân, đừng chống lại lẽ đạo xấu xa, giả dối hay hạng người luôn phạm sai lầm.
Lời lẽ của Ngài không loại trừ từng loại xét đoán.
2. Nếu quí vị là một chuyên gia và bạn bè thân nhất của quí vị sắp mua
sắm một “cây chanh”, há quí vị chẳng có ý kiến gì sao? Nếu quí vị là
một y tá hay một bác sĩ và một người bạn đang bốc thuốc có thể gây hại, há quí
vị chẳng có ý kiến gì sao? Nếu ngôi nhà người lân cận của quí vị sắp bốc cháy,
quí vị há chẳng lấy làm lo không biết cú điện thoại quí vị gọi có đánh thức họ
dậy hay không chăng? Nếu có người đến với nhà thờ của chúng ta dạy dỗ một lẽ
đạo giả dối gây trụy lạc, chúng ta há chẳng ngần ngại gạt họ qua một bên hoặc
làm cho họ câm miệng lại sao?
3. 1 Giăng 4.1 chép: "Hỡi kẻ rất
yêu dấu, chớ tin cậy mọi thần, nhưng hãy thử cho biết các thần có phải đến bởi
Đức Chúa Trời chăng; vì có nhiều tiên tri giả đã hiện ra trong thiên hạ”.
B. Sự phân biệt không có nghĩa là cung ứng thịt “thánh” cho “loài chó”.
1. Minh họa của Chúa Jêsus có ý gây sốc cho khán thính giả của Ngài. "Loài
chó" không có cùng một địa vị trong xã hội thời ấy như chúng đang có trong xã
hội của chúng ta. Ngày nay phần nhiều người trong quí vị xem loài chó là thành
viên trong gia đình của quí vị. Trong Palestine vào thế kỷ đầu tiên, với ngoại
lệ sử dụng chó chăn bầy chiên, gần như chẳng có ai nuôi chó cả.
2. Loài chó đi lang thang trên đường phố là loài chó lai có phân nửa
hoang dã đã sống giống như những kẻ chuyên đào bới đống rác để kiếm ăn. Chúng
rất bẩn thỉu, dữ dằn và thường hay bịnh tật. Người ta đã xem chúng rất nguy
hiểm.
3. Chúa Jêsus cho thịt là “vật thánh”, là thịt được
hiến dâng trên bàn thờ con sinh rồi đem thịt đó cho “loài chó” hoang sống
trên đường phố. Khi một con thú được dâng làm của lễ, một số thịt của thú ấy
được thầy tế lễ dùng để ăn, một số thịt được người đem dâng ăn và một số thịt
được coi là thánh và phải để lại trên bàn thờ. Ngài bảo đừng đem thịt dâng trên
bàn thờ mà cho chó ăn. Làm thế là phạm thượng
C. Sự phân biệt không có ý nói ném "hột trai" trước mặt “loài heo”.
1. "Lợn" hay heo bị người Do thái coi là loài ô uế nhất
trong tất cả các loài thú. Luật lệ Cựu ước nghiêm cấm việc ăn thịt heo. Là một
hành động tối phạm thượng, Antiochus Epiphanes đã dâng một con heo lên trên bàn
thờ của người Do thái và buộc các thầy tế lễ phải ăn thịt heo đó vào năm 168TC.
2. Vì hầu hết người Do thái không bao giờ xét tới việc thuần hoá loài
heo, heo sống trong xứ Palestine đều giống như loài chó, loài thú hoang dã,
chúng hay bươi móc các đống rác trong thành phố. Tôi tin chúng khá giống với
loài Javelinas ở bang Texas
với răng nanh và móng vuốt sắc bén hơn loài heo được người ta nuôi trong nhà.
3. Chúa Jêsus hình dung việc cầm lấy món nữ trang có giá trị nhất trong
thời buổi đó, "hột trai", rồi ném chúng
cho đàn lợn dã man. Rõ ràng loài heo hoang dã không thể ăn nuốt được loại "hột
trai" nầy, vì vậy chúng sẽ "đạp dưới chơn" rồi "quay lại
cắn xé các ngươi". Không những loài heo chẳng thích ứng với "hột
trai", chúng sẽ tấn công quí vị vì đem đồ ăn đến
cho chúng.
D. Tình yêu thương của Đức Chúa Trời buộc chúng ta phải học biết xét
đoán hay phân biệt sao cho thích ứng.
1. Hãy đối diện với tình yêu ấy, có một số người sẽ bị ví sánh với "chó" và "heo" trong minh hoạ
của Chúa Jêsus. Họ chẳng biết thưởng thức cái gì là thánh, tốt đẹp, và có giá
trị hết. Mặc dù chúng ta cần phải yêu thương tất cả mọi người, chúng ta cần
phải phân biệt có nhiều người sẽ chẳng chịu nghe theo đâu!?!
2. Trước khi Chúa Jêsus sai phái 12 môn đồ của Ngài ra đi giảng Tin
Lành, Ngài nhắc cho họ nhớ chính nguyên tắc nầy (đối chiếu 10.11-15).
3. Trong Công vụ Các sứ đồ 13.46, Phaolô đã nói với người Do thái nào đã
chối bỏ Đấng Christ: "Phaolô mà Banaba bèn
nói cùng họ cách dạn dĩ rằng: Ấy cần phải truyền đạo Đức Chúa Trời trước nhứt
cho các ngươi; nhưng vì các ngươi đã từ chối, và tự xét mình không xứng đáng
nhận sự sống đời đời, nên đây nầy, chúng ta mới xây qua người ngoại”.
4. Công vụ Các sứ đồ 18 cho chúng ta biết rằng khi Phaolô và Sila giảng
đạo cho người Do thái ở xứ Maxêđoan, những người nầy "đã khinh
dễ" và "chống cự" họ. Phaolô đã nói: "Nhưng, vì chúng
chống cự và khinh dể người, nên người giũ áo mình mà nói rằng: Ước gì máu các
ngươi đổ lại trên đầu các ngươi! Còn ta thì tinh sạch; từ đây, ta sẽ đi đến
cùng người ngoại” (câu 6).
5. Phaolô đã dạy Hội Thánh Côrinhtô phải "phó" một người vô
đạo đức "cho Satan để hủy hoại phần xác thịt" (I Côrinhtô
5.5).
6. Sự thể ấy thật đáng buồn, song đấy lại là sự thật, chia sẻ Tin Lành
với một số người dường như là hư không. Tôi đã thấy một số cửa đóng lại trước
mặt tôi. Tôi đã thấy một số người rủa sã tôi. Tôi nói với những người muốn
tranh luận từng quan điểm của Tin lành nhưng không hề chịu xem xét đức tin. Có
người, giống như Pharaôn thời Môise rõ ràng đã tự làm cứng lòng mình. Có người
giống như lớp đất cằn cỗi trong Thí dụ nói về người gieo giống.
7. Phierơ đã trưng dẫn lời lẽ của Chúa ở đây khi ông viết về các giáo sư
giả trong II Phierơ 2.22, ở đây chép: "Chó liếm lại đồ nó đã
mửa” và “heo đã rửa sách rồi, lại lăn lóc trong vũng bùn”. Chúng ta đã
nhìn thấy người ta bước vào nhà thờ rồi trở ra vì họ chưa thực sự hướng về Đấng
Christ. 1 Giăng 2.19 chép: "Chúng nó
đã từ giữa chúng ta mà ra, nhưng vốn chẳng phải thuộc về chúng ta; vì nếu chúng
nó thuộc về chúng ta, thì đã ở cùng chúng ta; song điều đó đã xảy đến, hầu cho
tỏ ra rằng mọi kẻ ấy chẳng thuộc về chúng ta vậy”.
8. Có thể chính vợ hay chồng của quí vị đang từ chối không chịu tin, có
thể là cha, mẹ, anh em, con trai, con gái, bạn bè thân cận nhất...Phải chăng
quí vị chỉ đến lấy "hột trai" của mình rồi
đi luôn?
9. Có khi, đấy là việc đáng
ưa nhất mà chúng ta có thể làm. Tuy nhiên, như câu kế tiếp cho chúng ta thấy,
chúng ta có thể tiếp tục cầu nguyện.
II. XIN, TÌM
& GÕ: Yêu thương đòi hỏi phải BỀN ĐỖ (các câu 7-8).
A. Chúa Jêsus dạy chúng ta phải bền đỗ trong ba lãnh vực. Đây là những
mạng lịnh cơ bản dạy chúng ta đừng thối lui trong nghi ngờ và ngã lòng. Ba lãnh
vực nầy là "ba nhu cần trong hiện tại". Chúa Jêsus đã nói với
họ như thế nầy: "Cứ luôn cầu xin! Cứ luôn tìm kiếm! Cứ luôn gõ
cửa!"
1. Chúng ta cần phải "xin".
a. Điều nầy có nghĩa là chúng ta cần phải đến trước mặt Chúa với tình
trạng vô dụng hoàn toàn. Chúng ta cần phải đến trước mặt Ngài với hai bàn tay
trống không. Chúng ta cần phải bày tỏ với Ngài như Đấng duy nhất có thể làm
thoả mãn mọi nhu cần của chúng ta.
b. Đôi khi chúng ta không có những gì chúng ta đang cần vì chúng ta
không cầu xin. Chúng ta tìm cách làm thoả mãn mọi nhu cần của chúng ta. Chúng
ta từ chối không chịu hạ mình xuống trước mặt Đức Chúa Trời. Giacơ 4.2 chép: "anh em chẳng được chi, vì không cầu xin".
c. Hãy nhớ, chúng ta cần phải luôn “cầu xin”. Phaolô đã
viết: "cầu nguyện không thôi". Đây không phải là một giọng
đơn điệu vô ý tứ lâm râm tụng niệm đôi ba câu thần chú đâu. Nó có nghĩa là bền
đỗ trong sự cầu nguyện.
d. Chúa Jêsus đã cung ứng Thí dụ nói về
đờn bà goá bền đỗ trong Luca 18.1-5.
e. Đứa con gái lớn nhất của tôi luôn luôn bền đỗ khi nó muốn xin xỏ hay
nói ra một việc gì đó đối với tôi. Nó nói: "Bố ơi, Bố ơi, Bố ơi,
Bố ơi, Bố ơi..."
2. Chúng ta cần phải "tìm".
a. Chữ "tìm" có nghĩa là "tìm kiếm,
tìm cho ra". Chúng ta cần phải tìm kiếm Đức Chúa Trời và ý chỉ của Ngài cho chúng
ta.
b. Chúng ta cần phải giữ lấy việc "tìm". Đứa con gái
út của tôi mới có 3 tuổi. Nó hay đeo bám lấy mẹ nó. Nếu nó không tìm gặp mẹ nó
trong nhà, nó sẽ tìm và kiếm cho tới chừng nào nó gặp được mới thôi.
3. Chúng ta cần phải "gõ cửa".
Một vị Mục sư kể lại câu
chuyện về mẹ ông, bà luôn ở nhà với hai đứa nhỏ chưa đến tuổi đến trường. Ngày
kia, bà muốn ở riêng ra vài phút, vì vậy bà bước vào phòng ngủ rồi nhẹ nhàng
khoá cửa lại. Chưa đầy một phút trôi qua, thì hai đứa nhỏ kia bắt đầu chạy tới
chạy lui rồi cất giọng la lên: "Mẹ ơi, Mẹ ơi!... Mẹ có ở trong đó
không?" Khi bà không đáp lại, chúng cứ khăng khăng – gõ cửa... gõ cửa... gõ
cửa... GÕ CỬA. Bà giận dữ mở
cửa ra rồi nói: "Hai đứa muốn gì đây?" Hai gương mặt
nhỏ bé kia bèn tươi cười rạng rỡ nhìn thẳng vào bà rồi nói: "Chúng con chỉ muốn biết mẹ đang ở đâu thôi!"
B. Chúa Jêsus hứa rằng sự bền đỗ của chúng ta sẽ được ban thưởng trong
ba cách:
1. Khi quí vị "xin", Chúa Jêsus hứa "sẽ
được". Ngài phán "hễ ai xin thì được".
2. Khi quí vị "tìm", Chúa Jêsus hứa "sẽ
gặp". Ngài phán đặc biệt: "ai tìm thì gặp".
3. Khi quí vị "gõ", Chúa Jêsus hứa rằng "sẽ mở
cho". Ngài phán sâu xa hơn: "ai gõ cửa thì được mở".
C. Yêu thương có nghĩa là phải bền đỗ trong sự cầu nguyện của chúng ta.
1. Chúng ta cần phải hiểu rằng 2 câu nầy không phải là “tờ chi phiếu
trắng” đâu. Đức Chúa Trời không phải là một cái máy bán buôn tự động trong vũ
trụ, để quí vị có thể đặt hai đồng xu trong đó rồi đưa ra một sự lựa chọn đâu!
Đức Chúa Trời đáp lời cầu nguyện của chúng ta dựa theo 2 điều kiện:
a. THỨ NHỨT, CHÚNG TA PHẢI THUỘC VỀ NGÀI. Hãy chú ý từ ngữ "ai" trong câu 8.
Chữ nầy có nghĩa là "bất cứ ai" thuộc về Đức
Chúa Cha. “Ai” là người đã được cứu. Hạng người hư mất không thể trông
mong lời cầu nguyện của họ được nhậm giống như những người đã được cứu được.
b. THỨ HAI, CHÚNG TA PHẢI VÂNG THEO NGÀI. 1 Giăng 3.22 chép: "và chúng
ta xin điều gì mặc dầu, thì nhận được đều ấy, bởi chúng ta vâng giữ các điều
răn của Ngài và làm những điều đẹp ý Ngài". Đức Chúa Trời
không buộc chính mình Ngài phải chu tất hết mọi ham muốn ích kỷ của chúng ta.
Giacơ 4.3 chép: "Anh em cầu xin mà không nhận lãnh được, vì
cầu xin trái lẽ, để dùng trong tư dục mình".
c. THỨ BA, CHÚNG TA PHẢI ĐẦU PHỤC NGÀI. 1 Giăng 5.14 chép: "Nầy là
điều chúng ta dạn dĩ ở trước mặt Chúa, nếu chúng ta theo ý muốn Ngài mà cầu xin
việc gì, thì Ngài nghe chúng ta". Đức Chúa Trời muốn ban cho
chúng ta ý chỉ của Ngài. Chúng ta cần phải học cầu nguyện trong ý muốn của
Ngài.
2. Tình yêu thương không chịu thua. Nếu người yêu của quí vị chưa được
cứu, đừng thối lui! Cứ khăng khăng cầu xin nơi hai cánh cửa của thiên đàng vì
người ấy. Nếu bạn bè của quí vị đang sống ngoài ý muốn của Đức Chúa Trời, đừng
thối lui, cứ giữ việc cầu nguyện và gặp gỡ luôn. Nếu quí vị bị xúc phạm, đừng
thối lui, cứ giữ lấy sự hầu việc và tỏ bày ra ân điển. Đừng xét đoán tín hữu
khác, phải bền đỗ trong tình yêu thương vì người ấy.
III. BÁNH, ĐÁ
& CÁ: TÌNH YÊU THƯƠNG bao hàm TRƯỚC SAU NHƯ MỘT (các câu 9-12).
A. Hai minh họa về tình yêu thương của Đức Chúa Trời dành cho con cái
Ngài (các câu 9-11).
1. Chúa Jêsus hỏi người kia hay người cha là loại người gì khi cho con
mình “đá” khi con mình xin “bánh”? Chúng ta đang
nói con cái của quí vị đang xin bịch bánh kia kìa? Phải chăng quí vị cất đi cái
đĩa đầy hoa kia rồi đưa trở lại cái đĩa toàn là đá không sao? "Nè con, nhiều lắm nè!"
KHÔNG! Dĩ nhiên là không rồi!
2. Chúa Jêsus hỏi về một người cha, con của ông nầy xin “cá” , nhưng lại
đem cho nó một con “rắn”. Hãy tưởng tượng xem, nếu
con của quí vị thực sự thích ăn cá!?! Lẽ nào quí vị đưa chúng đến một khu vực
lầy lồi đầy rắn rồi bỏ chúng ở đó? Không!
3. Chúa Jêsus tóm tắt rằng dù chúng ta vốn là “xấu” (nghĩa là
được đánh dấu bằng tội lỗi, tự nhiên là tội nhân) sẽ cho con cái mình "vật tốt
thay”, "huống chi Cha các ngươi ở trên trời lại chẳng ban các vật tốt cho
những người xin Ngài sao?" Nói cách khác, không có
một giới hạn nào về sự tốt lành mà Ngài sẽ ban cho chúng ta, là con cái của
Ngài.
B. Một nguyên tắc trong tình yêu thương của Đức Chúa Trời mà chúng ta sẽ
tỏ ra cho mọi người (câu 12).
1. Đây là một trong những câu trọng lượng nhất trong cả Kinh Thánh. Câu
nầy có thể được gọi là "đỉnh
Everest của đạo đức" và là "Điều Luật
Vàng".
2. Chúa Jêsus đã ban cho chúng ta một danh sách những chữ “đừng”
khi đạt tới chỗ yêu thương. Nếu quí vị muốn được yêu thương, đừng để bị xét
đoán. Nếu quí vị muốn được yêu thương, đừng tìm kiếm tội lỗi nơi đời sống của
anh em mình. Nếu quí vị muốn được yêu thương, đừng ném hột trai của mình cho
bầy heo,...Giờ đây Ngài ban cho chúng ta "thực thi"
sự yêu thương đó.
3. "Ấy vậy, hễ điều chi mà các ngươi muốn người ta làm cho mình, thì
cũng hãy làm điều đó cho họ". Nói như thế có
nghĩa gì? Nói như thế có nghĩa là mọi hành động của chúng ta phải phù hợp với
lời nói của chúng ta. Cung cách sống của chúng ta phải phù hợp với sứ điệp của
chúng ta. Chúng ta cần phải bước đi song hành theo lời nói.
4. Cách thức chúng ta đối xử với người khác không được quyết đoán ở chỗ
chúng ta trông mong họ đối xử với chúng ta hay chúng ta sẽ suy nghĩ họ
sẽ đối xử với chúng ta như thế nào, mà bởi cách chúng ta “muốn” họ “đối xử” với chúng ta .
5. Chúng ta duy trì việc đó rất đơn giản. Nếu quí vị muốn được tha thứ,
thì quí vị phải biết tha thứ. Nếu quí vị muốn rời rộng, thì phải rộng lượng.
Nếu quí vị muốn được khích lệ, hãy làm sự khích lệ đi. Nếu quí vị muốn sự tử
tế, thì phải sống tử tế đi.
6. Câu nầy rất dễ áp dụng. Hãy tự đặt mình vào chiếc giày của người khác
rồi nói: "Tôi sẽ cần gì nếu tôi là người đó". Rồi hãy làm
theo điều ấy.
7. Chúa Jêsus phán, sống theo cung cách sống đó tương đương với việc tuân
giữ "luật pháp của các đấng tiên tri". Đấy là phần
tóm tắt ngăn gọn của cả Cựu ước.
HÃY NHỚ, YÊU THƯƠNG LÀ MỘT ĐỘNG TỪ. Một cô gái
người Mỹ đã đính hôn khi cuộc Nội Chiến nổ ra. Bạn tình của cô bị gọi nhập ngủ,
vì vậy đám cưới phải hoãn lại. Giữa các trận đánh, anh rất chung tình viết thư
cho nàng rất thường xuyên. Nàng đọc đi đọc lại từng lá thư cho tới chừng cô
thuộc lòng hết các bức thư ấy. Thế rồi việc thư từ cũng đến lúc phải chấm dứt.
Nàng hay tin chàng đã bị thương ở chiến trường trong đồng vắng. Nàng rất lo âu.
Sau cùng, một bức thư đã đến, nhưng đấy là một là thứ viết tay của ai đó. Thư
viết: "Có một trận đánh khủng khiếp khác. Thật là khó cho anh khi phải nói với em về
chuyện nầy, nhưng anh đã bị thương. Anh đã bị liệt rồi. Cả hai cánh tay và bàn
tay đều vô dụng hết. Một người bạn đã viết dùm cho anh lá thư nầy. Trong khi
anh yêu em rất là nhiều, anh miễn cho em sự đính ước trước đây, mong em sẽ tìm
được một người chồng lành lặn".
Ngay lập tức, nàng rời khỏi quê nhà và dự một chuyến hành
trình nguy hiểm xuyên ngang qua trận địa. Rồi khi đến tại bịnh viện mà từ đó
nàng đã nhận được lá thư sau cùng, nàng đã hỏi hướng đi rồi lên đường đến bên
cạnh người yêu của mình. Nàng cúi xuống hôn anh rồi nói: "Em yêu anh và không thể rời bỏ anh. Em không muốn lìa bỏ anh. Đôi
cánh tay của em sẽ là hai cánh tay của anh. Hai bàn tay của em sẽ là hai bàn
tay của anh”.
YÊU THƯƠNG LÀ MỘT ĐỘNG TỪ. Động từ ấy phải được đặt vào hành động. Quí vị có bằng lòng để cho đời
sống của mình, hai bàn tay của mình trở thành hai bàn tay của Đấng Christ khi
đến với tha nhân không? (Galati
2.20).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét