MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Quyền
phép vô hạn của Chúa Jêsus
Mathiơ 8:1-17
1. Tôi thích các phép lạ
của Chúa Jêsus. Mỗi lần tôi đọc những truyện tích tin lành nói tới cách Ngài
chìa tay ra chạm đến người què, kẻ mù, người có bịnh, kẻ đang hấp hối và người
chết, tôi rất cảm động. Các phép lạ là phần ưa thích nhất của tôi trong các bối
cảnh lịch sử của Kinh Thánh.
A. Các phép lạ chỉ ra cách Chúa Jêsus làm thay đổi nhiều đời sống. Một người bị mù
từ thuở sanh ra đột nhiên nhìn thấy được. Một người đờn bà bị bịnh ngặt nghèo
trong 12 năm, bà ta đã tiêu pha bao nhiêu tiền tiết kiệm của mình vào hết
chuyên gia nầy đến chuyên gia khác đã được chữa lành bởi cái chạm vào áo xống
của Ngài. Một bà goá thật buồn thảm trong đám rước tang chế kia nhìn thấy con
trai mình đã chết bật sống lại bởi lời phán của Ngài.
B. Các phép lạ bày tỏ ra tình yêu thương và sự thương xót của Chúa Jêsus. Tôi tưởng
tượng ra ánh mắt của Ngài khi Ngài phán với hai vợ chồng kia rằng đứa con gái
của họ không phải chết mà là ngủ. Tôi tin Ngài đã bật cười thật vui khi một
người què được dòng xuống từ ngả mái nhà bật đứng dậy và nhảy múa, vác lấy
giường mình mà trở về nhà! Chúa Jêsus đã yêu thương những người nầy dường bao.
Nỗi đau khổ của họ cũng là nỗi đau khổ của Ngài!
C. Các phép lạ đang phô bày ra quyền phép đáng sợ, vô hạn của Chúa Jêsus. Với một lời
nói, Ngài quở biển đang gầm rống, bão tố phải im lặng. Với một cái chạm, ánh
sáng liền chiếu vào đôi mắt từng chỉ có bóng tối ở đó mà thôi. Trong sự hiện
diện của Ngài mọi quyền lực của ma quỉ ở địa ngục đều run rẩy.
2. Chương 8 bắt đầu chỗ
chương 4 chừa lại... với các phép lạ của Chúa Jêsus. Hãy cùng xem với tôi 4.23-25. Các chương 5-7
là phần ở trong dấu ngoặc đơn chứa Bài Giảng Trên
Núi.
3. Trong phân đoạn kế tiếp
nầy, các chương 8-9, Mathiơ ghi lại cho chúng ta chín phép lạ. Thật là quan
trọng khi nhớ rằng Đức Thánh Linh đã hướng dẫn Mathiơ chọn lấy chín trong số
hàng trăm phép lạ như thế nầy, có lẽ hàng trăm phép lạ do Chúa Jêsus làm ra
trong suốt ba năm rưỡi chức vụ của Ngài. Sứ đồ Giăng kết luận câu chuyện ông
viết về đời sống của Chúa Jêsus bằng câu nói ở Giăng 21.25: “Lại
còn nhiều việc nữa mà Đức Chúa Jêsus đã làm; ví bằng người ta cứ từng việc mà
chép hết, thì ta tưởng rằng cả thế gian không thể chứa hết các sách người ta
chép vậy”.
4. Thế giới của con người
sống ở xứ Palestine
trong thời Chúa Jêsus không có một thứ gì hết thậm chí sự chăm sóc y tế cơ bản
nhất cũng không có. Bịnh tật thì lan tràn. Nếu có người sống qua cơn bạo bịnh,
sở dĩ được như thế là vì sự lây nhiễm đã chạy theo con đường của nó. Thường thì
kẻ mắc bịnh hay bị thương tật. Khắp nơi nơi người ta đi, đâu cũng có người bị
sẹo, biến dạng, què, mù và nhiều chứng tật khác nữa. Cho nên chẳng có gì lạ
lùng khi tấm lòng của Chúa Jêsus đã hướng vào hạng người cùng khổ nầy.
5. Tại sao Đức Thánh Linh
cảm thúc Mathiơ và các trước giả khác nhắc tới họ trong Kinh Thánh? Câu trả lời
rất là đơn giản. Các phép lạ mà Chúa Jêsus đã tỏ ra quyền phép vô hạn của Ngài,
khẳng định thần tính của Ngài và sự Ngài tuyên xưng mình là Đấng Mêsi, là Con
Đức Chúa Trời.
6. Từ bốn phép lạ nầy,
chúng ta sẽ tiếp thu bốn phương thức trong đó quyền phép của Chúa Jêsus hiện
hữu không giới hạn.
I. Quyền phép
của Chúa Jêsus không bị hạn chế bởi lòng thương xót (các câu 1-4).
A.
Một người phung đến gần Chúa Jêsus (các câu 1-2a).
1. Chúng ta vừa hoàn tất Bài Giảng Trên Núi. 7.28-29 mô tả
thể nào dân chúng "lấy đạo Ngài làm lạ". Ngài không
làm cho họ phải ngủ mê nhưng thách thức họ. “Vì Ngài dạy như là có
quyền, chớ không giống các thầy thông giáo”. Họ đã nghe Chúa Jêsus rao
giảng với thẩm quyền hay uy quyền và bây giờ họ nhìn thấy Ngài hành động với uy
quyền!
2. Sau khi hoàn tất bài giảng của mình, “Ngài ở trên núi
xuống". Khi Ngài xuống rồi: "có đoàn dân đông lắm theo Ngài". Thường thì
khi dân chúng tham dự vào các sự cố gây hứng thú cao, họ không muốn rời khỏi
đó. Họ muốn gặp diễn giả, người chơi nhạc, hoặc người quản trò. Họ muốn một "kéo sang
màn khác”. Khi sứ điệp kết thúc rồi, Chúa Jêsus đã có hàng trăm, có lẽ là hàng
ngàn người kêu gào đòi Ngài phải chú ý tới họ.
3. Tôi có thể tưởng tượng các môn đồ đang hành động giống như những
người bảo vệ, họ đứng bao xung quanh Chúa Jêsus khi Ngài đi xuyên qua đám
đông người. Đột nhiên, đoàn dân đông
chia ra làm hai giống như Biển Đỏ vậy, họ há hốc miệng vì kinh ngạc và đứng lui
lại, té ngã lên nhau trong hoảng loạn. Từ giữa sự hỗn loạn nầy có một “người phung” đang bước tới.
4. Bịnh phung, ngày nay người ta nhận biết đó là bịnh Hansen là một
chứng bịnh đáng sợ nhất trong thời buổi ấy. Bịnh nầy lây nhiễm rất cao và có
thể lan rộng bởi vi trùng trong không khí. Trong quyển “Ô uế! Ô uế!” (Unclean!
Unclean!), L.S. Huizenga viết:
“Chứng bịnh mà ngày nay chúng ta gọi là bịnh
phung nói chung bắt đầu với nỗi đau nhức ở các phạm vi nhứt định của cơ thể.
Tình trạng tê liệt nối theo sau. Không lâu sau đó da ở những chỗ đó mất đi màu
sắc của nó. Nó mỏng dần đi, bóng láng, và như có vảy cá vậy... Khi bịnh trạng
tiến triển, những chỗ da mỏng đó trở nên bẩn thỉu nhức nhối và lở loét có rỉ
máu. Phần da, đặc biệt quanh con mắt và lỗ tai bắt đầu tụm lại thành vết nhăn
lõm sâu giữa các chỗ sưng, rồi gương mặt của người bịnh bắt đầu giống như mặt
của con sư tử. Những ngón tay teo lại từ từ hay rỏ nước; mấy ngón chân cũng bị
ảnh hưởng tương tự. Hai đường chân mày và lông mi rụng mất. Đến thời điểm nầy
một người có thể nhìn thấy nhân vật đang ở trong tình trạng đáng thương như thế
là một người phung. Bởi cái chạm của ngón tay người ta cũng có thể cảm nhận
được căn bịnh ấy. Một người có thể ngửi được chứng bịnh đó, vì người phung toả
ra một mùi rất khó chịu. Hơn nữa, khi quan sát thì thấy tác nhân tạo ra chứng
bịnh cũng thường tấn công thanh quản, giọng nói của người phung cũng nghe thấy
rất là khó chịu. Cổ họng của người trở nên khàn khàn, và giờ đây quí vị có thể
không những nhìn thấy, cảm biết, và ngửi thấy người phung, mà quí vị còn nghe
thấy giọng nói khàn khàn của người nữa. Và nếu quí vị ở lại với người trong một
lúc, quí vị có thể tưởng tượng một mùi vị thật kỳ cục nơi miệng của mình có lẽ
thích ứng với mùi hôi thối đó”.
5. Không có phương thuốc chữa nào hết. Theo luật Cựu ước, thầy tế lễ
tuyên bố nạn nhân là một người phung và người nầy sẽ bị trục xuất ra khỏi cộng
đồng. Họ thường bị đánh đập rất nghiệt ngã mới đưa họ ra khỏi gia đình được. Họ
không thể đến gần bất kỳ một người thanh sạch nào. Sự tiếp xúc về mặt con người
đối với họ chính là sự tiếp xúc với những người phung khác.
6. Đây là phần tiểu sử khủng khiếp của nhân vật đã chạy đến với Chúa Jêsus
trên đường. Thầy tế lễ đã đuổi ông ta đi, nhưng Chúa Jêsus lại đưa người quay
trở lại. Đoàn dân đông chẳng thấy hy vọng gì nơi người nầy. Họ đã đứng lui lại
trong sự hốt hoảng. Còn Chúa Jêsus thì yêu thương người.
B.
Chúa Jêsus bị người phung chất vấn (câu 2b).
1. Hãy chú ý trước khi nói ra câu nói ấy, người phung đã "lạy" Chúa Jêsus.
Tôi tưởng tượng ông ta đang úp mặt xuống đất trước mặt Chúa. Có lẽ ông ta đã
nghe sứ điệp từ một khoảng xa xa. Có lẽ ông ta đã nghe nói rằng Chúa Jêsus đã
chữa lành các thứ bịnh tật khác. Ông ta đã tin theo Chúa Jêsus. Ông ta vốn biết
rõ Ngài chính là Con toàn năng của Đức Chúa Trời.
2. Hãy chú ý câu nói của ông ta: “Lạy
Chúa, nếu Chúa khứng, chắc có thể làm cho tôi sạch được”. Ông ta đã gọi
Ngài là "Chúa", ông ta vốn biết rõ Ngài là ai rồi! Ông ta không
hồ nghi về thẩm quyền của Chúa Jêsus. Ông ta không hồ nghi về quyền phép của
Chúa Jêsus. Thắc mắc duy nhất của ông ta là sự thương xót của Chúa Jêsus. Ấy
không phải Chúa Jêsus có thể chữa lành cho ông ta, mà
Chúa Jêsus sẽ chữa lành cho ông ta hay không mà thôi!
3. Các thầy tế lễ đã đuổi người nầy ra khỏi gia đình của ông ta. Ông ta
không thể đến tại nhà hội được, cũng không thể vào trong thành thánh và đến đền
thờ được. Ông ta biết rõ cách mà người Pharisi và thầy tế lễ nhận ra ông ta.
Ông ta muốn biết Chúa Jêsus có “khứng” hay không ,
không biết Ngài có chịu thương xót hay không nữa.
C.
Chúa Jêsus đáp ứng với người phung (các câu 3-4).
1. Đừng bỏ qua phần đầu của câu
3: “Đức Chúa Jêsus giơ tay rờ người”. Chưa có ai
từng làm như thế cả. Người ta luôn tránh né khỏi ông ta. Có người đã ném đá vào
ông ta để giữ khoảng cách với ông ta, nhưng chưa từng có ai dám chạm đến ông
ta.
2. Quí vị có nghe thấy đám đông há hốc miệng vì kinh ngạc khi Chúa Jêsus
chìa tay ra rờ đến da lở loét của người bịnh nầy không? Chắc họ đã nghĩ: "Sao ông ta
dám tiếp xúc với căn bịnh ấy từ người phung nầy?"
3. Tôi tưởng tượng Chúa Jêsus đang khom người xuống, nâng cằm của người
nầy lên, trìu mến nhìn thẳng vào mắt của ông ta rồi nói: "Ta khứng,
hãy sạch đi".
4. Hãy chú ý mệnh đề kế tiếp: "Tức thì người phung
được sạch". Khi Chúa Jêsus giúp người nầy đứng dậy, ông ta đã
nhìn xuống rồi thấy rõ da mình đã được sạch, mấy ngón tay và ngón chân đều y
nguyên trở lại, ông ta đã được chữa lành!
5. Chúa Jêsus bảo ông ta đừng nói cho ai biết. Vì một lý do nào đó, Ngài
chưa hẳn lộ diện ra trước vùng ánh sáng. Tuy nhiên, Ngài muốn người phung phải
làm theo những điều đã được kê ra trong luật Môise, phải đi tỏ mình cùng thầy
tế lễ để "làm chứng cho họ".
D. Chúa Jêsus vẫn còn đáp ứng với lòng thương xót.
1. Quí vị không phải là một người phung, nhưng quí vị là một tội nhân.
Giống như bịnh phung, tội lỗi là một căn bịnh đang lan khắp đời sống của quí
vị. Quí vị không thể làm gì được với căn bịnh ấy, nhưng Chúa Jêsus thì có thể!
2. Vô luận tình trạng của quí vị có là gì đi nữa, nếu quí vị trở nên
giống như người phung đó, hãy đến với
Chúa Jêsus trong sự tin cậy, tôn kính, hạ mình, và đức tin, Ngài sẽ chữa lành
cho quí vị ngay.
II. Quyền phép
của Chúa Jêsus không bị hạn chế bởi thời gian và không gian (các câu 5-13).
A.
Lời nài xin của viên thầy đội (các câu 5-7).
1. Có lẽ chính ngày ấy, Chúa Jêsus “đã vào thành Cabênaum", thành nầy lúc
bấy giờ là một ngôi làng giàu có bên bờ biển Galilê, là quê hương của Phierơ và
Anhrê.
2. Khi Ngài đã vào trong thành nầy rồi, "một thầy đội" đã đến cùng
Ngài. "Thầy đội" là một viên quan trong quân đội La mã, là
người chỉ huy hơn 100 lính. Không có chút hồ nghi nào, người nầy là một người
dân Ngoại, ông ta phục vụ trong đội quân chiếm đóng đồn trú tại Israel. Ông ta
đã bị thù ghét, bị xem khinh, và bị người Do thái ghê sợ.
3. Trong một phân đoạn tương ứng ở Luca 7.1-10, dường như nhân vật nầy
đã đến cùng Chúa Jêsus qua các trung gian người Do thái. Tuy nhiên, ông ta đã
đến, ông ta đã đến “xin” hay khẩn khoản xin Chúa Jêsus.
4. Ông ta nói: "Lạy Chúa, đứa đầy tớ tôi mắc bịnh bại, nằm
liệt ở nhà tôi, đau đớn lắm". Từ ngữ nói đến "đứa đầy
tớ" ở đây sát nghĩa có ý nói tới một đứa trẻ. Có lẽ nó là đứa con của một
tên tôi tớ ở trong nhà của ông ta.
5. Người La mã thường nghiệt ngã với hàng tôi tớ của họ và rất ít quan
tâm đến họ, trừ phi giá trị và khả năng làm việc của họ. Viên thầy đội nầy
dường như rất khác biệt. Mặc dù ông ta là một người lính trừ bị, một cựu chiến
binh, tình cảm của ông ta dành cho con cái hàng nô lệ như thế nầy là quá rõ
rệt.
6. Hãy lưu ý rằng ông ta không xin Chúa Jêsus đến với đứa trẻ. Ông ta
nói rõ nan đề. Chúa Jêsus đáp ứng nhanh chóng: "Ta sẽ đến,
chữa cho nó được lành”.
B.
Đức tin của viên thầy đội (các câu 8-9).
1. Có lẽ sở dĩ như vậy là vì ông ta không muốn làm phiền Chúa Jêsus, hay
khiến cho Chúa bị ô uế về mặt nghi thức do việc vào nhà của người dân Ngoại,
nhưng ông ta nói: "Lạy Chúa, tôi chẳng đáng rước Chúa vào
nhà". Giống như người phung kia, ông ta đã tỏ ra sự tôn kính và sự hạ mình
rất cao.
2. Hãy chú ý cả hai lần viên thầy đội nói chuyện với Chúa Jêsus, trong
các câu 6 & 8, ông ta đã gọi Ngài là "Chúa". Đây không
phải là xã giao xuông đâu! Tước hiệu "Chúa" đề cập tới
Đấng đang tể trị hay một ông chủ. Người nầy đã công nhận Chúa Jêsus là Con của
Đức Chúa Trời.
3. Sau khi nhìn biết và hiểu rõ một việc, ấy là uy quyền vô hạn của Chúa
Jêsus, ông ta nói: "xin Chúa chỉ phán một lời, thì đầy tớ tôi sẽ
được lành”. Ông ta đã nhìn nhận quyền phép của Chúa Jêsus không bị giới hạn bởi
thời gian và không gian. Ông ta vốn biết rõ Chúa Jêsus sẽ chữa lành và ông ta
tin Chúa Jêsus sẽ chữa lành bất cứ đâu và bất kỳ thời điểm nào.
4. Nền tảng cho niềm tin của ông ta nằm trong câu 9, ông ta nói: "Vì tôi ở
dưới quyền người khác, tôi cũng có quân lính dưới quyền tôi nữa; tôi biểu tên
nầy rằng: hãy đi! thì nó đi; biểu tên kia rằng: Hãy đến! thì nó đến; và dạy đầy
tớ tôi rằng: Hãy làm việc nầy! thì nó làm”.
a. Là kẻ có người "dưới quyền", ông ta có thể
khiến lính tráng và nô lệ của mình làm bất cứ điều chi ông muốn chỉ bằng cách
ra lịnh cho họ mà thôi.
b. Ông ta lý luận rằng Chúa Jêsus là "Chúa" và có uy quyền
cao tột hơn ông ta nhiều. Nếu ông ta với uy quyền có hạn, có thể đưa ra lịnh
lạc và ý chỉ ông ta sẽ được thực hiện, còn Chúa Jêsus chỉ với một lời thôi sẽ
có hiệu quả còn nhiều hơn nữa!
C.
Khoái lạc của Chúa Jêsus (các câu 10-13).
1. Là Đức Chúa Trời toàn tri trong một thân thể của con người, Chúa Jêsus
biết rõ mọi tấm lòng của con người, nhưng trong nhân tính của Ngài, Ngài đã "lấy làm
lạ". Ngài phán với những người Do thái đứng vây quanh Ngài: “Ta chưa hề thấy
ai trong dân Ysơraên có đức tin lớn dường ấy”. Có nhiều người
Do thái tin vào quyền phép của Ngài, thế nhưng không giống với viên thầy đội
người La mã nầy.
2. Chúa Jêsus tiếp tục dạy rằng viên thầy đội La mã không phải là một
mình trong đức tin của ông ta đâu! Ngài phán: "có nhiều người từ
đông phương, tây phương sẽ đến" có ý nói tới các dân
Ngoại. Họ sẽ: "ngồi đồng bàn với Ápraham, Ysác và Giacốp trong nước thiên đàng”. Ngài cũng phán
rằng có nhiều "con bổn quốc”, là người Do thái sẽ bị "liệng ra
chốn tối tăm ở ngoài" ở đó có "khóc lóc và nghiến
răng".
3. Sự cứu rỗi không nhằm vào con cái của Ápraham, mà nhắm vào việc tin
theo Đức Chúa Jêsus Christ. Roma 4.3 chép: "Ápraham tin Đức Chúa
Trời, và điều đó kể là công bình cho người”.
4. Chúa Jêsus đã nhìn viên thầy đội La mã với một nụ cười trên gương mặt
Ngài và một ánh mắt sáng khi phán: "Hãy về, theo như điều
ngươi tin thì sẽ được thành vậy”. Mathiơ nói thêm rằng tên
đầy tớ đã “được lành, chính trong giờ đó".
D. Quyền phép của Chúa Jêsus vẫn không bị giới hạn bởi thời gian và
không gian.
1. Chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời là toàn tại. Ngài hiện diện ở khắp
mọi nơi. Ngài là ubiquitous nghĩa là Ngài đồng hiện
diện ở khắp mọi nơi.
2. Do quyền phép vô hạn nầy, chúng ta có thể cầu thay cho ai đó ở mặt
bên kia của thế giới và Đức Chúa Trời Ngài lắng nghe và đáp trả. Chúng ta có
thể cầu thay cho việc chi đó ngay bây giờ và sau đó Đức Chúa Trời sẽ đáp ứng.
III. Quyền
phép của Chúa Jêsus không bị giới hạn đối với tha nhân (các câu 14-15).
A.
Chúa Jêsus chữa lành cho bà gia của Phierơ (các câu 14-15).
1. Có lẽ vào cuối bữa trưa ngày đó, Chúa Jêsus "vào nhà
Phierơ" trong thành Cabênaum. Mác thuật
lại cho chúng ta biết Ngài đã vào nhà với Phierơ, Anhrê, Giacơ và Giăng.
2. Khi bước vào nhà, họ mới thấy mẹ vợ của Phierơ bị "đau
rét". Sự thật là bà đang nằm ở đó, không thể chổi dậy, cho thấy bà bịnh nặng
lắm. Cơn “rét” của bà không được xử lý bằng aspirin hay thuốc kháng sinh. Trong thời
buổi đó, bịnh tật như vậy có thể đe doạ mạng sống.
3. Chúa Jêsus bước lại gần người bịnh và "rờ tay" bà giống như
quí vị cầm tay của người bạn đang nằm viện vậy. Ngay chính giây phút đó, "rét liền
mất đi".
4. Hãy chú ý sau khi bà khoẻ trở lại, bà đã "đứng dậy
giúp việc hầu Ngài". Phút nầy, bà đang nằm trên giường đau rét, qua
phút sau bà đang có mặt ở trong bếp lui cui nấu món thịt hầm rồi!
B.
Quyền phép của Chúa Jêsus không chỉ dành cho tha nhân.
1. Thường thì trong chúng ta, những người đang nắm chức vụ, có xu hướng
phục vụ cho các nhu cần của mọi người trừ ra gia đình của chính chúng ta. Tôi
đã nhìn thấy có người đã bị hất hủi vì Mục sư/cha của mình đã dành thì giờ cho
mọi người trừ ra anh ta.
2. Không những đấy là thực trong các gia đình của Mục sư, mà còn thực
trong các gia đình Cơ đốc nữa. Các thành viên trong gia đình bị đặt vào thứ tự
ưu tiên “chót”.
3. Nếu chúng ta không cẩn thận, chúng ta sẽ bắt đầu suy nghĩ rằng Đức
Chúa Trời giống như một người cha không lưu tâm. Không phải như vậy đâu. Quyền
phép của Ngài không những hướng vào tha nhân, mà quyền phép ấy cũng dành cho
quí vị nữa đấy.
4. Chúa Jêsus có quyền phép và lòng thương xót chữa lành cho một người
phung và tôi tớ của viên thầy đội La mã. Ngài cũng có thì giờ để chữa lành cho
một người trong gia đình của các môn đồ Ngài.
5. Đôi khi chúng ta đến với Hội Thánh và nghe những điều Đức Chúa Trời
đang thực thi ở khắp mọi nơi và chúng ta nghĩ Ngài không hiện diện ở đây với
chúng ta. Ngài đang hiện diện ở đây! Ngài có nhiều chương trình lớn lao dành
cho chúng ta. Chúng ta chỉ nên tin cậy nơi Ngài mà thôi!
6. Đôi khi chúng ta nghe nhiều điều kỳ diệu mà
Đức Chúa Trời đang làm trong đời sống của nhiều người khác. Thậm chí chúng ta
lấy làm ganh tỵ vì đời sống chúng ta dường như quyền phép ấy chẳng đụng đến
được. Đừng thối lui. Hãy hướng vào Ngài. Hãy xưng ra tội lỗi của quí vị. Ngài
đang ở gần y như những lời cầu nguyện của quí vị đấy!
IV. Quyền phép
của Chúa Jêsus không bị giới hạn ở một ít người (các câu 16-17).
A.
Chúa Jêsus chữa lành cho đoàn dân đông (các câu 16-17).
1. Mathiơ cho biết "đến chiều", có lẽ sau
buổi ăn chiều khi cả thành Cabênaum theo sát bước chân của Phierơ.
2. Người ta "đem cho Đức Chúa
Jêsus nhiều kẻ bị quỉ ám, Ngài lấy lời nói mà đuổi quỉ ra; cũng chữa được hết
thảy những người bịnh".
3. Quí vị có thể hình dung ra bối cảnh ấy chăng? Chúa Jêsus ngồi ngay
thềm của ngôi nhà, một đám dân đông bao phủ toàn bộ mặt tiền sân. Từng người
bịnh, đau khổ trong thành có mặt ở đó với những người thân và bạn hữu. Từng
người một, xếp hàng dài trong bóng đêm, Chúa Jêsus gặp gỡ và chữa lành cho từng
người một.
4. Mathiơ nhắc cho chúng ta nhớ rằng chức vụ chữa lành bằng phép lạ của
Chúa Jêsus đã làm ứng nghiệm một lời tiên tri nói về Đấng Mêsi trong Êsai 53.4:
"Chính
NGÀI đã lấy tật nguyền của chúng ta, và gánh bịnh hoạn của chúng ta”.
B. Quyền phép của Chúa Jêsus không phải chỉ dành cho một ít người.
1. Có nhiều người trong Cơ đốc giáo tin rằng Chúa Jêsus đã đến chỉ vì họ
hay họ là nhóm duy nhất thực sự đang làm theo những gì Đức Chúa Trời muốn họ
nhóm lại. Thái độ duy nhất nầy đang thịnh hành trong nhiều Hội Thánh. Sự nầy
như muốn nói: "Nếu quí vị không tin mọi sự đúng y như
chúng tôi tin thì Đức Chúa Trời sẽ không chúc phước cho đời sống hay chức vụ
của quí vị".
2. Phierơ cùng các môn đồ khác đã bị cám dỗ khi có một tâm tình thiển
cận mà tự mãn như thế nầy. Họ tưởng rằng họ có Chúa Jêsus làm mọi sự dành cho
họ. Nếu họ nghĩ thế, Chúa Jêsus đã dạy họ một bài học rất có giá trị. Ngài
không những chữa lành cho bà gia Phierơ. Ngài đã chữa lành cho mọi người trong
thành phố.
3. Chúng ta cần phải nhớ rằng tình yêu và quyền phép của Đức Chúa Trời
không những dành cho quí vị và tôi, mà còn dành cho cả thế giới nữa đấy!
Longfellow có thể lấy một mãnh giấy vô giá trị,
viết lên đó một bài thơ, rồi ngay lập tức biến nó ra có giá trị hàng ngàn đô la
– và người ta gọi đấy là thiên tài. Rockefeller có thể ký tên ông lên mãnh giấy
rồi khiến nó ra có giá trị thành hàng triệu đô la – và người ta gọi đó là sự
giàu có. Một người thợ máy có thể lấy vật liệu có giá trị bằng 5 đô la rồi biến
nó ra có giá trị 500 đô la – và người ta gọi đó là tài khéo. Một hoạ sĩ có thể
lấy một tấm vải bạt đáng giá 50 xu rồi vẽ lên đấy một bức tranh, rồi biến tấm
bạt đó ra có giá trị hàng ngàn đô la – và người ta gọi đó là nghệ thuật. Chúa Jêsus
có thể lấy một đời sống vô giá trị, tội lỗi, tẩy rửa đời sống ấy bằng huyết của
Ngài, đặt Thánh Linh Ngài vào trong người ấy, rồi biến đời sống đó ra có giá
trị cho Đức Chúa Trời – và người ta gọi đó là sự cứu rỗi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét