MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Sự phán
xét những kẻ chối bỏ
Mathiơ 12:38-42
1. Khi còn là
sinh viên thần học, tôi đến làm việc trong một tiệm hàn với người chủ tiệm tên
là Charles. Charles là một người rất giỏi trong nhiều phương diện. Anh rất chịu
khó làm việc và trả công hậu hỉ cho thầy thợ. Anh luôn luôn mau mắn giúp đỡ ai đó
khi có cần. Anh rất rời rộng, nhanh nhẹn và là một người rất hoạt bát. Anh rất kỉnh
kiền đối với Đức Chúa Trời và sống theo một bộ luật đạo đức rất nghiêm ngặt.
Charles có một nan đề không được tốt cho lắm, anh không cần tới Đấng Christ hay
Hội Thánh.
2. Thế gian đầy dẫy
hạng người ngay thẳng, đạo đức thậm chí rất tôn giáo, họ tin nơi Đức Chúa Trời
và cố gắng giúp đỡ cho nhiều người. Có nhiều người đã chịu phép báptêm, năng động
dự phần trong Hội Thánh và được giao cho nhiều chức vụ khác nhau. Một số người
không đi nhà thờ lại là hạng người nhơn đức đến nỗi họ làm cho những người đi nhà
thờ đều đặn phải thấy xấu hổ. Tuy nhiên, vì mọi việc lành, đạo đức và vẻ tôn
giáo bề ngoài của họ, có nhiều người trong số đó đã bị hư mất và đang hướng tới
địa ngục.
3. Tại sao vậy?
Vì mọi việc lành của họ, họ đã chối bỏ Đấng Christ. Người ta không được lên
thiên đàng trên cơ sở sống nhơn đức đâu. Không một ai là nhơn đức cả. Không có
cây cân lớn nào khi phán xét sẽ cân đối giữa mọi việc lành cùng những tội lỗi của
chúng ta đâu! Chúa Jêsus phán rõ ràng: "Vậy Đức
Chúa Jêsus đáp rằng: Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi ta thì
không ai được đến cùng Cha" (Giăng 14.6). Ngài phán trong
Giăng 3.36: "Ai tin
Con, thì được sự sống đời đời; ai không chịu tin Con, thì chẳng thấy sự sống đâu,
nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người đó".
4. Trong phân đoạn
nầy, Chúa Jêsus xử lý với "các thầy thông giáo và người dòng
Pharisi".
A. Thật là dễ cho
chúng ta khi cho rằng hạng người nầy là gian ác, nhưng trong thời của họ, họ được
người ta tôn kính và không nghi ngờ chi hết, nhiều người trong số họ đều có
lòng khao khát muốn phục sự Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, giống như Charles bạn
tôi, họ đã cậy vào sự nhơn đức riêng của họ giải cứu họ.
B. Ở bề ngoài, họ
tỏ ra rất là tôn giáo, song khi Chúa Jêsus chỉ ra vẻ bề ngoài của họ, tội lỗi của
họ bị phơi bày. Trong 23.27-28, Ngài phán: "Khốn
cho các ngươi, thầy thông giáo và người Pha-ri-si, là kẻ giả hình! vì các ngươi
giống như mồ mả tô trắng bề ngoài cho đẹp, mà bề trong thì đầy xương người chết
và mọi thứ dơ dáy. Các ngươi cũng vậy, bề ngoài ra dáng công bình, nhưng ở
trong thì chan chứa sự giả hình và tội lỗi". Trong câu 34 của
chương nầy, Ngài ám chỉ họ là "dòng dõi rắn lục".
C. Giống như nhiều
người ngày nay, "thầy thông giáo và người dòng
Pharisi" đã giả vờ dung chịu chức vụ của Chúa Jêsus. Ngày
nay có nhiều nhóm tôn giáo, nhiều hệ phái, cùng nhiều hệ thống thờ lạy hình tượng
đã giả vờ có một nhận định cao về Đấng Christ và Kinh Thánh. Tuy nhiên, khi họ đối
mặt với những lời tố giác có thẩm quyền của Chúa Jêsus và chính tội lỗi của họ,
họ liền chối bỏ Ngài.
D. Hạng người tôn
giáo nầy giờ đây đã biết đủ về Chúa Jêsus. Họ đã phơi bày bản chất thực của họ
trong câu 14 khi họ "bàn với nhau, lập mưu giết
Ngài".
I. Dấu
lạ đến từ trời (các câu 38-40).
A. Lời cầu xin
ban cho dấu lạ (câu 38).
1. Có lẽ đây là một
ban rất đặc biệt được chỉ định nghiên cứu mọi sự dạy của Chúa Jêsus, họ đã đến
gặp Ngài trong ngày đó.
2. Họ đã nghe lời
quở trách gay gắt của Ngài do họ đưa ra lời nói Ngài đã “nhờ
Chúa quỉ” mà đuổi quỉ (câu 24). Không nghi ngờ chi nữa, họ đã sôi sục với
cơn giận dữ. Tuy nhiên, họ đã cắn lưỡi của mình khi đưa ra lời cầu xin quá đơn
sơ như vậy.
3. Họ gọi Ngài là
"Thầy" hay Rabi, thậm
chí họ đã tỏ ra xem khinh Ngài. Tước hiệu đáng kính nầy có lẽ là vì cớ đám dân đông.
4. Họ đáp: "Chúng
tôi muốn xem thầy làm dấu lạ". Nói cách khác, họ muốn
Chúa Jêsus làm ra một phép lạ để minh chứng Ngài chính là Đấng Mêsi. Rõ ràng là
họ thực sự không tin và không thuyết phục được Chúa Jêsus sẽ không làm ra một “dấu lạ”
nào. Trong 16.1, họ đã đến "có ý
thử Ngài, thì xin làm cho xem một dấu lạ từ trên trời xuống".
5. Hãy suy nghĩ
trong một phút xem. Họ có mặt trong đám đông ngày ấy. Họ đã chứng kiến lẽ thật ở
câu 15: "và Ngài chữa lành cả". Họ đã trông thấy
trong nỗi kinh ngạc lúc Chúa Jêsus chữa lành một người bị "quỉ
ám, mù và câm". Họ đã nghe đám dân đông hô lớn: "Người
nầy có phải là Con Vua David không?" Họ còn muốn trỗi hơn thế nữa!
6. Đây là một lẽ
thật quan trọng nói về Chúa Jêsus: “Ngài dành giữ phép lạ dấu kỳ của
Ngài cho những người mà Ngài động lòng thương xót cho”. Chúa Jêsus vui sướng
chữa lành cho từng thứ bịnh tật nơi họ. Ngài quở biển đang gầm rống phải im lặng để minh chứng tình yêu của Ngài
dành cho các môn đồ Ngài. Thế mà Ngài không hề, không bao giờ và không làm một
phép lạ nào cho những kẻ chỉ trích phê phán nhìn thấy.
a. Ngài từ chối
không nhảy xuống từ nóc đền thờ cho Satan thấy (Mathiơ 4.6-7).
b. Ngài không làm
phép lạ cho Hêrốt xem (Luca 23.8).
c. Ngài không làm
phép lạ cho các "thầy thông giáo cùng người dòng
Pharisi" xem.
B. Đáp ứng cho lời
xin một dấu lạ (câu 39).
1. Chúa Jêsus đã
chỉ ra rằng không phải một người có đức tin đòi hỏi một dấu lạ mà là "dòng
dõi hung ác gian dâm". Chắc chắn động lực của họ đều
là “xấu”. Họ muốn làm mất uy tín của
Chúa Jêsus. Họ không phải là hạng người thành thật tìm kiếm chân lý. Họ cũng là
“gian dâm” nữa. Họ đã quên lẽ thật của Đức Chúa Trời nói về sự
thờ lạy hình tượng. Mặc dù họ không thờ lạy các hình tượng kể từ thời kỳ lưu đày,
họ đã làm ra nhiều thứ hình tượng cho tôn giáo của họ và theo truyền khẩu do
con người lập ra.
2. Chúa Jêsus còn
nói thêm rằng "sẽ chẳng cho một dấu lạ khác". Ban dấu lạ cho
hạng người chuyên phê phán chỉ trích, điều nầy ngược lại với bổn tánh và chương
trình của Ngài. Ngài có thể ban cho dấu lạ, nhưng Ngài không làm thế.
3. Ngoại lệ duy nhất
mà Chúa Jêsus thực thi cho đáp ứng nầy là "dấu lạ của Đấng
tiên tri Giôna".
C. Dấu lạ của
Giôna (câu 40).
1. Giôna, tất
nhiên, là tiên tri thời Cựu ước, Đức Chúa Trời bảo ông phải ra di và rao giảng
cho thành "Nineve". Thay vì thế, ông đã trốn
sang thành Ta-rê-si trên một chiếc tàu. Đức Giêhôva đã sai một cơn bão lớn đến
và Giôna đã bị ném xuống biển để cứu chiếc tàu.
2. Đức Chúa Trời
khiến ông bị một “con cá lớn” nuốt lấy và ông đã
ở trong “bụng” cá trong "ba
ngày ba đêm" cho tới khi ông bị con cá mửa ra trên bờ biển gần
thành "Nineve".
3. Chúa Jêsus
phán rằng câu chuyện của Giôna là một HÌNH BÓNG một kiểu cách của “dấu lạ”. Ngài muốn nói “ba
ngày ba đêm trong bụng cá” của Giôna làm
hình bóng cho Chúa Jêsus sẽ phải ở "ba ngày ba đêm trong
lòng đất".
4. Giống như
Giôna đã bị chôn trong biển sâu, Chúa Jêsus sẽ bị chôn trong đất. Giống như
Giôna đã bị mửa ra bởi quyền phép của Đức Chúa Trời, Chúa Jêsus sẽ sống lại từ
trong kẻ chết.
5. “Dấu lạ
của…Giôna" đích thực chính là dấu lạ sự sống lại của Ngài. Điều
nầy không phải là việc mà các cấp lãnh đạo Do thái có thể hiểu được, mà còn lấy
làm lạ thêm nữa.
II. Sự
phán xét đến từ trời (các câu 41-42).
A. Sự phán xét của
“dân thành Ninive” (câu 41).
1. Mặc dù sự ngần
ngại của Giôna không muốn rao giảng cho “dân thành Ninive”, họ đã nghe được
sứ điệp của ông, họ đã "ăn năn" và tránh được cơn
phán xét của Đức Chúa Trời giáng trên thành và trên gia đình của họ.
2. “Dân
thành Ninive” không những là dân Ngoại, bất chấp lẽ thật của Lời Đức
Chúa Trời, mà họ còn là người Asiri thù nghịch, hung ác... là hạng người cực kỳ
gian ác. Dù vậy Giôna 3.5-6 cho chúng ta biết khi họ nghe xong lời của Đức
Giêhôva họ đã "rao ra sự kiêng ăn và mặc bao gai" là một biểu tượng
của sự họ ăn năn và hạ mình xuống trước mặt Đức Chúa Trời.
3. Mặt khác, dân Israel
đã có luật pháp, các sách tiên tri và các dấu kỳ phép lạ vô số đến từ Chúa, thế
mà họ lại không nghe theo tiếng của Ngài. Dù có người "lớn
hơn Giôna", Con độc sanh của Đức Chúa Trời đã ngự đến giữa
vòng họ, họ đã từ chối không chịu nghe theo Ngài.
4. Vì họ chối bỏ Đấng
Christ, thậm chí “dân thành Ninive” ngoại đạo sẽ “đứng
dậy mà lên án nó”.
B. Sự phán xét của
“Nữ hoàng Nam phương” (câu 42).
1. “Nữ
hoàng Nam phương” là Nữ Hoàng Sêba, một nữ
hoàng giàu có của một xứ xa vùng Arabia, khoảng 1.200 dặm về phía Nam. Đối với
dân trong khu vực, 1200 dặm dường như là "từ nơi đầu
cùng đất".
2. Vị Nữ hoàng nầy
đã đi một chuyến hành trình thật dài băng ngang qua sa mạc nắng nóng để "nghe
lời khôn ngoan của Vua Salômôn". Thậm chí bà còn đem theo
dâng lên nhà Vua mọi của báu từ đất nước giàu có của bà như một cống thuế.
3. Mục tiêu của
Chúa Jêsus là đúng đắn. Đây là một người Ả rập ngoại giáo, có lòng thù ghét và
là một phụ nữ chuyên tra khảo những ai tìm kiếm ân điển nơi Đức Chúa Trời vì
chuyến hành trình hạ mình của bà đến gặp Salômôn.
4. Chúa Jêsus
phán: "mà đây nầy, có một
người tôn trọng hơn vua Sa-lô-môn!" Nếu Nữ hoàng phải
trả giá như thế để gặp một con người, các lãnh đạo Do thái nầy là ai mà từ chối
không tin theo Con Đức Chúa Trời là Đấng đang đứng trước mặt họ!
5. Thực vậy "nữ
hoàng nam phương" sẽ "chổi dậy mà lên án" dòng dõi người
Do thái vô tín nầy.
III. Ba
lẽ thật cho ngày hôm nay.
A. Mối tương giao
của chúng ta với Đức Chúa Trời phải dựa theo đức tin, chớ không phải dựa theo dấu
lạ.
1. Người ta ngày
hôm nay vẫn còn muốn trông thấy một dấu lạ. Họ muốn được chữa lành, làm cho đời
sống của họ được phong phú và loại bỏ hết mọi khó khăn trước khi họ tin. Đây là
miếng mồi của hệ thống thờ lạy hình tượng và các tôn giáo giả ngày hôm nay.
2. Lẽ thật Kinh
Thánh trong Êphêsô 2.8: "Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin,
mà anh em được cứu".
B. Những người rất
gần gũi với lẽ thật đôi khi quên phứt lẽ thật đó.
1. Người Do thái đã
có từng lý do để tin theo Chúa Jêsus, thế mà họ không tin. Cũng một thể ấy, nhiều
người ngày nay sống rất gần gũi với các lẽ thật của Chúa Jêsus, nhưng chỉ muốn đoạt
làm của riêng mà thôi. Họ có mặt trong nhà thờ nhưng không có mặt trong Nước Trời.
2. Hết thảy chúng
ta đều cần phải bước theo mưu luận của II Côrinhtô 13.5, câu nầy chép: "Chính
anh em hãy tự xét để xem mình có đức tin chăng. Hãy tự thử mình: anh em há
không nhận biết rằng có Đức Chúa Jêsus Christ ở trong anh em sao? miễn là anh
em không đáng bị bỏ".
C. Sự cứu rỗi dựa
theo sự công bình của Chúa Jêsus chớ không dựa vào sự nhơn đức của chúng ta.
1. Vô luận bạn
tôi Charles có sống nhơn đức thể nào, sự nhơn đức của anh ta không thể dời đi tội
lỗi của mình được.
2. Nếu ơn cứu rỗi
của chúng ta không duy bởi “đức
tin”, thì chẳng có ơn cứu rỗi chi hết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét