MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Chúa
Jêsus và các thí dụ
Mathiơ 13:1-23
1. Khi chúng ta
trở lại với phần nghiên cứu đời sống của Đấng Christ trong sách Mathiơ, chúng
ta đến với phần nhắc nhở đầu tiên về các thí dụ trong sách. Thí dụ là kỹ năng
giảng dạy quan trọng của Chúa Jêsus và chúng ta sẽ học hỏi nhiều về chúng sau
khi chúng ta xem xét kỹ phần nội dung.
2. Trước tiên,
chúng ta hãy tìm hiểu bối cảnh (các câu 1-2).
A. Câu 1 bắt đầu
bằng cách thuật lại cho chúng ta biết các sự cố trong chương 13 đã diễn ra "cũng
ngày ấy" như một phần của các sự cố trong chương 12. Chính "cũng
ngày ấy" mà mẹ và các em của Chúa Jêsus đã đến nói chuyện với
Ngài (các câu 46-47). Chính "cũng ngày ấy" một đám đông người
đau bịnh và có nhu cầu đã kéo đến cùng Ngài và Ngài "đã chữa
lành cả" (câu 15). Chính cũng ngày ấy Ngài đã làm ra
nhiều phép lạ chữa lành khác khiến cho người ta phải thắc mắc: "Có
phải người đó là con cháu Vua David chăng" (Đấng Mêsi)?
B. Cũng trong
chính ngày ấy Chúa Jêsus "ra khỏi nhà", nơi mà Ngài đã
giảng dạy mà đi ra mé biển. Thật là thú vị khi thấy ngay từ đầu chức vụ của
Chúa Jêsus, Ngài đã để ra nhiều thì giờ để ở trong: nhà dân, nhà hội, trụ sở công
cộng, còn bây giờ chúng ta thấy Ngài giảng dạy ở ngoài trời. Sở dĩ như vậy là
vì có hai tình huống. Thứ nhứt, người Do thái đã bắt đầu chối bỏ Ngài. Ngài
không còn được tiếp đón, hoan nghênh tại nhà của họ nữa. Thứ hai, vì dân chúng
yêu mến Ngài và đến với Ngài bằng "đoàn dân đông".
C. Vì
"đoàn dân đông" đến với Ngài, Chúa Jêsus "phải
xuống thuyền mà ngồi" còn dân chúng thì đứng trên “bờ". Bờ biển biến
thành giảng đường tự nhiên và biển khuếch đại giọng nói của Ngài hầu cho ai nấy
có thể nghe thấy được.
3. Kế đó, hãy tiếp thu phần định nghĩa về từ "thí
dụ" (câu 3a).
A. Chúa Jêsus "dùng
thí dụ mà giảng nhiều điều". Câu 34 cho chúng ta biết rằng
"Ngài chẳng phán điều gì cùng họ mà không
dùng lời ví dụ".
B. "Thí
dụ" [parable] ra từ chữ parabole, đây là một từ
kép ra từ chữ ballo, "đưa
vào hay đặt vào" và para, có nghĩa là "kế
bên". Vì thế, thí dụ là một câu chuyện được đưa vào kề bên một lẽ thật của
Kinh Thánh hay một nguyên tắc để so sánh, để soi sáng và làm cho dễ hiểu. Đây
là một hình thái thông thường trong sự giảng dạy của người Do thái. "Thí
dụ" được nhắc tới khoảng 45 lần trong bản Kinh Thánh 70 hay bản Kinh Thánh
Cựu ước Hy lạp.
C. Giảng dạy bằng
các thí dụ vẫn còn là một kỹ năng rất có hiệu quả.
D. Mặc dù Chúa
Jêsus đã sử dụng rồi một số minh họa trong phần nhgiên cứu sách Mathiơ của
chúng ta, phân đoạn nầy đề xướng ra vì các câu chuyện đặc biệt được đồng hoá như
các thí dụ và vì ý nghĩa chỉ được tỏ ra cho các môn đồ mà thôi.
4. Trong sứ điệp
nầy, chúng ta sẽ thấy Phần giới thiệu thí dụ, Mục
đích của thí dụ, và phần giải thích thí dụ.
I. Giới
thiệu thí dụ (các
câu 3-9).
Chúa Jêsus nói
cho họ biết rằng có "người gieo giống đi ra đặng gieo". Đây là bối cảnh
thường hay có ở xứ Galilê, một người với cái túi hột giống đeo trên vai đang
dùng tay gieo ra những hột giống trên các luống đất. Kế đó, chúng ta học về bốn
loại đất mà hột giống rơi trên đó.
A. Một phần giống
rơi “dọc đường" (các câu 3-4).
1. “Dọc đường” tiêu biểu cho các
con đường, lối đi chữ chi trong các cánh đồng ruộng xứ Galilê. Chúa Jêsus và
các môn đồ đang đi trên một con đường, khi ấy họ bứt bông lúa mì mà ăn trong
12.1.
2. Vì đất “dọc đường” sẽ rất thô cứng
do người ta đi lại nhiều trên đó, hột giống không thể châm rễ vào đất được, mà
nằm đó chờ "chim bay xuống và ăn".
B. Một phần khác
rơi nhằm chỗ “đất đá sỏi" (các câu 5-6).
1. Nhà nông luôn
luôn cẩn thận di dời các hòn đá ra khỏi ruộng của họ. Tuy nhiên, vì địa thế của
xứ Galilê, đã có nhiều lớp đá cứng nằm bên dưới. Có đất đủ cho cày cấy, song
không sâu đủ cho lúa bắt rễ.
2. Hột giống rơi
trên chỗ "đất đá sỏi" như thế, ở đó "ít
đất thịt, bị lấp không sâu" nên chúng liền "mọc
lên" nhưng "phải héo" và mau chóng chết đi vì bị
mặt trời "đốt" và vì chúng
"không có rễ".
C. Một phần khác
rơi nhằm “bụi gai"
(câu
7).
1. Đôi khi đồng
ruộng ở xứ Palestine
song hành với những hàng bụi gai. Những bụi gai nầy trở thành loại hàng rào tự
nhiên giữ cho thú vật không đột nhập vào ruộng lúa.
2. Lúc nào cũng vậy,
một phần hột giống "rơi nhằm bụi gai". Vì khi gặp đất
tốt, chúng liền mọc lên, lớn lên. Tuy nhiên, trước khi chúng có thể lớn đủ để kết
quả, "gai mọc rậm lên, phải nghẹt ngòi".
D. Một phần khác
nữa rơi nhằm “chỗ đất tốt" (các câu 8-9).
1. “Đất tốt”
nầy nằm giữa ruộng, ở xa "dọc đường",
"đất đá sỏi" và "bụi gai".
2. Vì chúng rơi
trên "đất tốt" và không bị ngăn trở, chúng
liền "sanh trái". Đã có một mùa gặt thật
trúng.
3. Cần phải nói rằng
ở xứ Palestine
trong thời đó tỉ lệ giống gieo gặt là 8/1. Tuy nhiên Chúa Jêsus mô tả kết quả
là "một hột ra được một trăm, hoặc một hột sáu chục, hoặc
một hột ba chục". Nói cách khác, đã có vụ
mùa 100%, vụ 60% và vụ 30%. Tỉ lệ phần trăm nầy thực sự có thể nhận thức được bằng
giác quan.
4. Kế đó Chúa
Jêsus phán: "Ai có tai, hãy nghe!" Nói cách khác: "Nếu
các ngươi hiểu thí dụ, thì hiểu đi". Cần phải có sự sáng láng về
mặt thuộc linh mới hiểu được thí dụ. Tôi nghĩ Chúa Jêsus đang mời mọc người nào
muốn hiểu thêm nên đến gặp Ngài theo cách riêng, như các môn đồ đã làm.
II. Mục
đích của thí dụ (các câu 10-17).
Các môn đồ đã hỏi
Chúa Jêsus một câu rất riêng tư: "Sao thầy
dùng thí dụ mà phán cùng chúng vậy?" Tôi đoán là họ đang nghĩ: "Sao
Ngài không nói thẳng ra cho họ biết, để ai nấy có thể hiểu được?"
A. Thí dụ chúc phước
cho người nào tin (các câu 11-12).
1. Trong câu 11,
Chúa Jêsus đưa ra hai lý do cho việc chia sẻ các thí dụ không thể lý giải được:
để tỏ ra ý nghĩa cho những ai đã tiếp nhận Ngài và để che giấu ý nghĩa đối với
những kẻ đã chối bỏ Ngài.
2. Chúa Jêsus định
nói cho các môn đồ "biết những điều mầu nhiệm của Nước
thiên đàng". "Những điều mầu nhiệm"
không
có ý nói tới một số mưu đồ quái dị hay khó hiểu, mà nói tới các lẽ thật của Đức
Chúa Trời chưa được tỏ ra trong quá khứ. ”Nước” có ý nói tới sự
tể trị của Chúa Jêsus trong tấm lòng của loài người.
3. Người nào tin
thì được ban cho sự hiểu biết. Người nào chối bỏ không được "ban
cho" sự hiểu biết. Thực ra "Vì sẽ cho thêm kẻ
nào đã có". Người tín đồ nào có sự sáng láng hiểu biết của Đức
Chúa Trời sẽ nhận lãnh thêm tri thức khi người ấy chịu khó nghiên cứu và học hỏi.
4. Mặc khác, người
không tin, "kẻ nào không có" ngay cả sự sáng
láng tối thiểu hay sự hiểu biết, “thì lại bị cất
luôn điều họ đã có nữa”.
5. Về mặt thuộc
linh, dù là cao hay thấp. Người nào "đói khát sự công bình"
sẽ được
"no đủ". Người nào chối bỏ ân điển của Đức Chúa Trời
sẽ mất đi điều họ đã có nữa.
B. Thí dụ làm cho
kẻ không tin phải lầm lẫn (câu 13).
1. Chúa Jêsus
phán về hạng người vô tín, những kẻ đã nghe giảng sứ điệp của Ngài: "xem mà
không thấy, lắng tai mà không nghe, và không hiểu chi hết". Lời của Ngài là
sự nhắc lại lời nói của Êsai, Ngài trưng dẫn ở các câu 14-15.
2. Tại sao họ
không thể thấy hay nghe hoặc hiểu chứ? Vì họ chọn không thấy, không nghe và
không hiểu. Đặc biệt nói về người Do thái trong câu 15, Êsai đã nói
tiên tri: "dân nầy nặng tai…"
3. Họ đã chối bỏ Đấng
Mêsi của họ, rồi vì cớ đó họ không thể hiểu được. Cũng thực như thế với những
người vô tín ngày nay. Vì họ chối bỏ Đấng Christ, họ không có chức vụ của Đức
Thánh Linh. Không có Đức Thánh Linh họ sẽ chẳng biết chi về “những
lẽ mầu nhiệm” trong Kinh Thánh. Đức Chúa
Trời đã ấn định theo chiều hướng đó.
C. Thí dụ làm ứng
nghiệm lời tiên tri (các câu 14-15). Sự ứng nghiệm đầu tiên lời tiên tri
của Êsai là sự phu tù ở Babylôn. Sự ứng nghiệm tối hậu là chức vụ của Chúa
Jêsus.
D. Thí dụ bày tỏ
ra lẽ mầu nhiệm của Đức Chúa Trời (các câu 16-17).
1. “Mắt” và “tai” của Cơ đốc nhân đều
được phước vì chúng có sự hiện diện ở bên trong của Đức Thánh Linh dẫn dắt
chúng (I Côrinhtô 2.9-10).
2. Ở cuối loạt
thí dụ nầy, Chúa Jêsus đã hỏi các môn đồ Ngài ở câu 51: "Các
ngươi có hiểu điều đó chăng?" Họ đáp: "Có
hiểu" không phải vì họ thông minh siêu đẳng đâu, mà vì họ có Đức Thánh Linh
dẫn dắt!
3. Chúa Jêsus nhắc
cho họ nhớ trong câu 17, thậm chí "có nhiều Đấng
tiên tri, nhiều người công chính" đời xưa "đã
ước ao" song không thể thấy hoặc nghe những gì họ đã thấy và nghe.
III. Phần
giải thích thí dụ (các câu 18-22).
A. Hiểu hột giống
rơi "dọc đường" (các câu 18-19).
1. Lý do người nầy
"không hiểu" đạo là vì người không muốn
hiểu. Giống như con đường khó hột giống không thể bắt rễ được, người nầy làm
cho tấm lòng mình chai cứng đối với Tin lành.
2. Tiếp đến
Satan, "quỉ dữ" giống như bầy chim trong
thí dụ "cướp đi" sứ điệp “đã
gieo trong lòng mình".
3. Giống như “dọc đường” chai cứng do người
ta đi lại nhiều, Satan giúp làm chai cứng tấm lòng của nhiều người với “sự đi
lại nhiều” của thuyết duy lý trí [intellectualism], sự bận
rộn, và phương tiện truyền thông đại chúng…
4. Satan thậm chí “cướp
đi" lẽ thật ra khỏi những người tin Chúa. Có bao nhiêu lần quí vị chẳng nhận
được gì từ Kinh Thánh? Quí vị đã làm chai cứng tấm lòng mình rồi đấy!
B. Hiểu hột giống
rơi trên “đất đá sỏi” (các câu
20-21).
1. “Đất đá
sỏi” tiêu biểu cho tấm lòng nông cạn. Mặc dù người nầy lúc đầu "liền
vui mừng chịu lấy [đạo]" chỉ “tạm
thời” mà thôi, vì không có gốc rễ đào sâu vào vùng đất ân điển của Đức Chúa
Trời.
2. Vì một số ảnh
hưởng bên ngoài như "sự cực khổ, sự bắt bớ" người nầy liền "vấp
phạm". Có bao nhiêu lần quí vị gặp một người tuyên xưng đức tin, nhận lãnh
phép báptêm, chịu khó làm việc vì mùa vụ rồi chỉ thấy trắng tay không?
3. Có thể đây
chính là quí vị đấy. Quí vị chưa thực sự được cứu.
C. Hiểu hột giống
rơi giữa “bụi gai" (câu 22).
1. Giống như hột
giống bị nghẹt ngòi giữa “bụi gai”, có người nghe giảng Tin
lành, bị Đấng Christ kích thích, nhưng lại nghẹt ngòi do "lo
lắng về đời nầy, và sự mê đắm về của cải".
2. Chúng ta hãy
xem xét trường hợp của "người
trai trẻ giàu có” ở Mác 10.17-23.
D. Hiểu hột giống
rơi trên “đất tốt” (câu 23).
1. Người nào là “đất tốt” vì hột giống thuộc
linh đáp ứng theo ba cách: người "nghe đạo", "hiểu" (người không
chối bỏ đạo), và "được kết quả" đức tin hiển
nhiên trong đời sống của mình.
2. Chúng ta hãy
xem xét kết quả của một tín đồ thực trong Galati 5:22-25.
3. Không những một
tín đồ thực "được kết quả", mà người sẽ "một hột
ra một trăm, hột khác sáu chục, hột khác ba chục". Mặc dù những ai
kết trái thuộc linh đều là hạng tín đồ chơn thật, một số người vì sự đầu phục
và vâng lời của họ mà kết quả nhiều người các người khác.
Hai lẽ thật sau
cùng: Thứ nhứt, chúng ta không chịu trách nhiệm về mùa gặt, chỉ chịu trách
nhiệm về việc gieo mà thôi. Thứ hai, chúng ta chịu
trách nhiệm về bông trái của mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét