MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Đức tin
chân chính
Mathiơ 15:21-28
1. Có nhiều định
nghĩa về đức tin. Hêbơrơ 11.1 cung ứng cho chúng ta một định nghĩa theo Kinh
Thánh: "Vả, đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều
mình đương trông mong, là bằng cớ của những điều mình chẳng xem thấy". Các học giả Kinh
Thánh thuộc mọi thời đại đã phấn đấu để định nghĩa đức tin theo thần học. Tuy
nhiên, để bắt đầu, chúng ta hãy suy nghĩ một vài định nghĩa về đức tin:
· Tin tưởng cậu con
trai của mình ở tuổi thiếu niên với chiếc xe hơi vào ngày hẹn hò đầu tiên của
nó.
· Tin tưởng đứa con
gái tuổi thiếu niên của mình vào ngày hẹn đầu tiên của nó với con trai của người
khác.
· Tin vào người thợ
máy đã móc cái thắng của xe sau khi sửa chữa chúng.
· Tin tưởng đứa con
nói: "Mẹ nói sẽ không sao nếu con…"
· Tin vào đơn thuốc
của bác sĩ mà bạn không thể đọc được và tin một dược sĩ mà bạn không quen biết
khi ông ta pha trộn các thứ hoá chất mà bạn không thể đọc tên chúng.
2. Có người từng
phát biểu: "Những định nghĩa thật khó đã
thông, song các tấm gương thì thật phong phú". Tối nay tôi
không muốn nhắm vào một định nghĩa về đức tin, mà nhắm vào một tấm gương cụ thể
về đức tin chân chính. Theo cảm hứng đó, có nhiều tấm gương rất hay nói về đức
tin chân chính khắp cả Kinh Thánh.
A. Ápraham đã lìa bỏ quê hương
mình ở tuổi 75 để đi theo Đức Giêhôva đến Đất Hứa. Mặc dù tuổi ông đã lớn, ông đã
tin Đức Chúa Trời sẽ ban cho ông một đứa con trai.
B. Môise đã dẫn dắt con cái Israel mặc dù sự
thật cho thấy rằng họ đã hành động giống như con trẻ, luôn luôn than phiền và lằm
bằm.
C. Ghiđêôn đã tin Đức Chúa
Trời khi đoàn quân đông của ông bị rút lại còn võn vẹn có 300 người.
D. Đaniên đã tin Đức Chúa Trời
khi ông bị bỏ xuống hang sư tử.
E. Chúa Jêsus đã ban ra hai
thí dụ quan trọng nói tới đức tin bền đỗ, chân chính: Người đờn
bà goá bền đỗ (Luca
18.1-8) và Người
bạn bền đỗ (Luca 11.5-8).
F. Giuđe khuyên chúng ta phải
"vì đạo mà tranh chiến, là đạo đã truyền cho các thánh một lần
đủ rồi" (Giuđe 3).
3. Phân đoạn Kinh
Thánh của chúng ta là một thí dụ kỳ diệu nói về một người có đức tin rất bền đỗ.
Từ đó chúng ta có thể học biết ba đặc điểm của đức tin chân chính: đức tin ấy tỏ
ra nhu cầu, nhìn thấy ở bên kia nan đề và tin cậy nơi bổn tánh của Đức Chúa Trời.
I. Đức tin chân chính tỏ ra nhu cầu (các câu 21-22).
A. Chúa Jêsus đem
các môn đồ riêng ra (câu 21).
1. Khi chúng ta
nhìn ngược lại hai chương sau cùng, chúng ta thấy Chúa Jêsus đang chịu đựng một
áp lực rất lớn, ít nhất là từ bốn phía.
a. Ngài đang chịu
áp lực từ đoàn dân đông. Họ đã công nhận Ngài là Đấng Mêsi và mong muốn lập
Ngài làm Vua (Giăng 6.15).
b. Ngài đang chịu
áp lực từ Hêrốt Antiba. Vua chư hầu xứ Galilê vốn tin rằng Chúa Jêsus là sự báo
ứng của ông ta, là Giăng Báptít "đã sống lại từ kẻ chết" (14.2). Tánh ganh tỵ cực
mạnh của Hêrốt có tính cách huyền thoại.
c. Ngài đang chịu
áp lực từ các cấp lãnh đạo người Do thái. Các thầy thông giáo và người dòng
Pharisi đã "bàn với nhau, lập mưu giết Ngài" (12:14).
Sau lần đối mặt mới đây, các môn đồ đã hỏi Chúa: "Thầy có hay
rằng người Pha-ri-si nghe lời thầy nói mà phiền giận chăng?" (15:12).
d. Ngài đang chịu
áp lực từ chính thân thể vật lý của Ngài. Chúa Jêsus rất mệt mỏi. Ngài cần một
nơi để nghỉ ngơi và chuẩn bị cho các môn đồ thân tín nhất của Ngài cho mọi điều
sẽ xảy đến. Hết thảy chúng ta đều cần phải lui lại nghỉ ngơi giữa hai lần làm
việc.
2. Câu 21 nói
Ngài "đi từ đó", nghĩa là Ngài rời khỏi
Galilê. Ngài đi từ phía tây bắc đến "bờ cõi
thành Tyrơ và Siđôn". Ngài rời khỏi đám đông và di hành qua các khu vực
của Hêrốt và các nhà lãnh đạo Do thái.
3. Thật là thú vị,
nhiều thế kỷ trước, đại tiên tri Êli đã trốn vào chính khu vực nầy và đã tìm được
sự thoải mái trong nhà của bà goá "Sarépta,
thuộc Siđôn" (I Các Vua 17:9).
4. Chúa Jêsus
không rời khỏi Israel
để thi hành chức vụ, mà là để nghỉ ngơi. Mác 7:24 chép Ngài "vào
một cái nhà" (có lẽ đã thuê ngôi nhà ấy) "và
không muốn cho ai biết mình". Giống như nhiều
người nổi tiếng, Ngài đã đi không muốn cho ai biết.
5. Dầu thơm không
thể che giấu mùi vị của nó. Mặt trời không thể che giấu ánh sáng của nó và Con Đức
Chúa Trời không thể đi mà người ta chẳng nhận biết. Mác nói: "Song
Ngài không thể ẩn được". Đã có một sự rò rỉ. Có ai đó đã thấy Ngài.
B. Chúa Jêsus bị
một người mẹ theo bén gót (câu 22).
1. “Xảy
có một người đờn bà xứ Canaan , từ xứ ấy đến” cầu xin Chúa
Jêsus giúp đỡ. Mác 7:26 chép bà ta là "người
Gờréc, [sát nghĩa, là dân Ngoại], dân
Sirôphênixi". Bà ta chẳng phải là người Do thái. Bà ta chẳng có
một lời hứa nào của tuyển dân Đức Chúa Trời hết, nhưng dẫu thế nào thì bà ta vẫn
cứ đến với Chúa Jêsus.
2. Cái điều đã
khiến cho đức tin của người đờn bà nầy dường như lớn lao hơn đức tin của phần
nhiều người Do thái, ấy là niềm tin ấy đã dựa vào một chút ánh sáng đó. Bà ta đã
lớn lên trong một xã hội theo tà giáo. Bà ta xuất thân từ hạng người mà dân Israel
được truyền cho phải "tiêu diệt hoàn toàn" (Phục truyền
luật lệ ký 7.2). Bà ta không có Lời của Đức Chúa Trời để noi theo.
3. Dường như là
bà ta đã nhận ra rằng các thứ hình tượng của dân tộc bà ta đều vô dụng chẳng
giúp chi được cho đứa con gái "mắc
quỉ ám" của mình. Không nghi ngờ chi nữa, bà ta đã nghe nói về khả năng làm
phép lạ của Chúa Jêsus qua nhiều người khác.
4. Bà ta "kêu
lên". Phân tích văn phạm cho thấy rằng bà ta không nói ra câu nầy mà cứ kêu
lên câu nói ấy. Hãy chú ý phần đáp ứng của các môn đồ ở câu 23: "Xin
thầy truyền cho đờn bà ấy về, vì người kêu van ở đằng sau chúng ta".
5. Bà ta đã kêu cầu
nơi Chúa Jêsus xin "thương xót tôi cùng". Mặc dù bà ta biết
rõ mình chẳng xứng đáng chi với sự vùa giúp của Chúa Jêsus, bà ta đã tin nơi "sự
thương xót" của Ngài để cứu vớt đứa con
gái của mình.
6. Bà ta đã gọi
Ngài bằng tước hiệu Đấng Mêsi "Lạy Chúa,
con cháu vua David". Không một người Canaan bình
thường nào biết được tước hiệu đó. Có ai đó đã nói cho bà ta biết về Chúa Jêsus
và bà ta đã tin theo. Bà ta có đức tin nơi Ngài và đã tỏ ra nhu
cầu của mình.
C. Có phải chúng
ta nhơn đức tin mà bày tỏ ra nhu cầu của mình cho Chúa biết không?
1. Giacơ 4:2-3
chép: "… anh em chẳng được chi, vì không cầu xin. Anh em cầu
xin mà không nhận lãnh được, vì cầu xin trái lẽ, để dùng trong tư dục
mình".
2. Nhiều lần khi
chúng ta đối diện với nan đề và khó khăn, việc cuối cùng chúng ta làm là cầu
nguyện. Chúng ta thử mọi sự và trao đổi với mọi người để định liệu mọi việc
theo ý riêng của mình. Đấy là sự nương cậy vào bản ngã, chớ không nương cậy vào
Đức Chúa Trời.
3. Bước đi bởi đức
tin có nghĩa là chúng ta bày tỏ ra mọi nhu cầu của mình cho Chúa biết rồi bước đi
với lòng tin chắc Ngài sẽ làm thoả mãn các nhu cầu đó (Philíp 2:19; Hêbơrơ
11:6).
4. Đức tin có nghĩa
là tiếp tục kêu cầu nơi Chúa giống như người đờn bà nầy. Đôi khi, Đức Chúa Trời
kéo dài việc đáp trả những lời cầu nguyện của chúng ta vì thời điểm duy nhứt
chúng ta thực sự cầu nguyện là khi chúng ta gặp phải các nan đề.
II. Đức tin chân
chính nhìn thấy bên kia các nan đề (các câu 23-24).
A. Người đờn bà
tin mặc dù có ba nan đề lớn.
1. Thứ nhứt, bà
ta không phải là người Do thái. Bà ta là "người
đờn bà xứ Canaan". Bà ta là người dân Ngoại. Bà ta nói tiếng của người
Ngoại, sống theo văn hoá của dân Ngoại, và thực hành theo tôn giáo đa thần của
người Ngoại. Trong con mắt của hầu hết người Do thái, bà ta chẳng khác gì hơn một
con chó. Dù vậy, bà ta đã tin Chúa Jêsus sẽ giúp đỡ cho bà ta.
2. Thứ hai, Chúa
Jêsus đã bất chấp bà ta. Câu 23 chép: "Ngài chẳng đáp
một lời". Ngài đang hành động phù hợp
với Do thái giáo truyền khẩu. Đối với rabi Do thái, người đờn bà nầy không sao
bằng một con người cho được. Khi Ngài phán, đáp ứng của Ngài dường như riêng biệt
và xa xôi: "Ta chịu sai đến đây, chỉ vì các con chiên lạc mất của
nhà Isarel đó thôi". Bà ta vẫn quấy rầy Ngài.
3. Thứ ba, các
môn đồ đã tìm cách làm cho bà ta nản lòng. Họ đã "cố nài
xin" Chúa Jêsus "truyền cho đờn bà ấy về, vì người
kêu van ở đàng sau chúng ta". Chúng ta thường muốn nhơn đức
tin tin theo Đức Chúa Trời, nhiều người khác tìm cách tạo ra mưa trên cuộc diễu
hành của chúng ta.
B. Có phải chúng
ta mất đức tin trong ánh sáng của các nan đề hay có phải đức tin chúng ta tấn tới
bất chấp các nan đề của chúng ta không?
1. Cốt lõi của đức
tin là biết nhìn qua bên kia thật rõ ràng. Một lần nữa, Hêbơrơ 11:1 chép đức
tin là "bằng cớ của những điều chẳng xem thấy". Có người mô tả đức
tin như thế nầy: "Đức tin là dám đưa linh hồn đi xa hơn nó có thể
trông thấy".
2. Quí bạn tôi ơi,
trong đời nầy chúng ta sẽ luôn luôn có những nan đề. Sẽ luôn luôn có nhiều ngăn
trở. Chúng ta sẽ luôn luôn gánh chịu nhiều giông bão. Điều nầy là thực cho đời
sống cá nhân chúng ta và cũng cho đời sống tập thể của chúng ta trong vai trò một
Hội thánh nữa.
3. Đức Chúa Trời
sử dụng các nan đề của chúng ta để củng
cố cho đức tin chúng ta được vững mạnh. Chúng ta biết chúng ta đang ở đúng lằn
chạy khi chúng ta nói: "Nếu Đức Chúa Trời không lộ diện,
chúng ta sẽ thất bại".
4. Chúng ta thôi
không nhìn vào các nan đề nữa và hãy đặt chúng trên giải pháp: ấy là Chúa
Jêsus. Mọi nan đề của chúng ta không phải là tiền bạc hay con người, mà là
không hướng mắt nhìn xem Chúa Jêsus.
Geoffrey Gorsuch
viết về việc lái một chiếc máy bay nhỏ ở giữa trận bão lớn vào năm 1989: "Tôi
có thể nhìn thấy 20 feet ở đằng trước máy bay. Tôi buộc phải nương cậy duy nhứt
vào các dụng cụ phi hành chỉ phương hướng của mình. Các dụng cụ nầy đã dẫn tôi
qua cơn bão đến với đường băng. Có những lúc khi sự nhầm lẫn trong các đám mây
sẽ gây ra tai vạ, có nhiều lúc khi mọi ý thức của tôi dường như chỉ ra rằng các
dụng cụ đều không đúng, tạo ra hoảng loạn và viên phi công lầm lẫn không thể
tránh được. Nhưng tôi đã được huấn luyện để tin theo các dụng cụ đó. Và tôi đã...
khi chúng tôi rẽ khỏi các đám mây chừng 100 feet cách đường băng và trong một tư
thế hạ cánh thật ngon lành, mọi sự còn lại phải làm là giảm tốc độ máy rồi đưa
nó vào chỗ đậu trên đường băng. Khi mấy cái bánh xe đáp khẫn cấp tiếp cận với
những hàng đèn chiếu sáng, tôi biết chúng không còn cần thiết nữa. Tôi đã tin
vào các dụng cụ, tôi là một phi công và đó là ngày mà tôi biết chắc đã được an
toàn rồi". Đức Chúa Trời ban hiến cho mỗi người tin Chúa với
công cụ đức tin để nhìn xem Ngài qua mọi giông bão của cuộc sống.
III. Đức tin chân
chính tin vào bổn tánh của Đức Chúa Trời (các câu
25-28).
A. Người đờn bà đã
tin vào bổn tánh thật của Chúa Jêsus (các câu 26-27).
1. Mặc dù Chúa
Jêsus dường như từ chối lời nài xin của bà ta, người đờn bà vẫn không thối lui.
Bà ta không cho phép bản thân tin rằng Chúa Jêsus sẽ hất hủi mình. Thực vậy, bà
ta "đã lạy Ngài" mà thưa rằng: "Lạy
Chúa, xin Chúa giúp tôi cùng!"
2. Thái độ cay độc
của Chúa Jêsus dường như thêm phần tệ hại nữa. Khi sử dụng phép loại suy nói
dân Ngoại là “chó”, Ngài đã phán với
âm điệu phân biệt chủng tộc: "Không nên lấy bánh của con
cái mà quăng cho chó con ăn". Từ ngữ “chó
con” không có ý đề cập tới loài chó lai hoang dã, mà là chó nhà.
3. Phần lớn trong
chúng ta đều sẽ thấy khó chịu về câu nói đó. Chúng ta sẽ đứng dậy mà trở về nhà
với sự thua thiệt. Tuy nhiên, đức tin chân chính vốn bền đỗ. Bà ta đã nhìn nhận
tình trạng của mình và cứ tiếp tục nài xin cho được thương xót bằng cách nói:
"Lạy Chúa, thật như vậy, song mấy con chó con ăn những
miếng bánh vụn trên bàn chủ nó rớt xuống". Bà ta vui sướng
chấp nhận vai trò của con chó nhỏ, trông đợi miếng bánh vụn rớt xuống từ bàn của
chủ mình.
B. Chúa Jêsus ưa
thích đức tin chân thật của người đờn bà (các câu 27-28).
1. Tôi dám cuộc nụ
cười của Chúa Jêsus đã phá vỡ bối cảnh ấy ngay giây phút đó. Quyền phép của
thiên đàng không hể ngăn cản được nụ cười đó! Giống như mặt trời xuyên thủng
qua các đám mây sau một trận bão, lời lẽ của Chúa Jêsus đã ban thưởng cho đức
tin của bà ta: "Hỡi đờn bà kia, ngươi có đức tin lớn;
việc phải xảy ra theo ý ngươi muốn!"
2. Câu 20 chép rằng
lời nài xin của bà ta đã được nhậm ngay tức thì vì "cũng
một giờ đó, con gái người liền được lành". Hêbơrơ 11.6 chép: "Vả,
không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài". Chúng ta cũng phải
nói thêm rằng không có điều chi đẹp lòng Ngài cho bằng đức tin chân chính.
Một người bị lạc
trong sa mạc và sắp chết vì thiếu nước. Không bao lâu sau đó ông ta đi ngang
qua một máy bơm với cái bi đông đựng nước treo trên cán bơm và một lời ghi chú.
Lời ghi chú ấy đọc như sau: "Bên dưới bạn
là tất cả nước trong mát mà bạn sẽ cần đến, và cái bi đông chắc chứa đủ nước để
mồi vào máy bơm". Điều nầy cần tới ĐỨC
TIN LỚN để đổ số nước mồi chứa trong bi đông để lấy một lời hứa về nguồn nước
vô hạn kia. Quí vị sẽ làm gì nào?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét