MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Đấng
Christ hay thương xót
Mathiơ 15:21-39
1. Tôi đã rao giảng
suốt sách Mathiơ trong hai năm qua. Tới thời điểm nầy là chương 15, tôi đã giảng
58 sứ điệp. Tối nay, chúng ta sẽ kết thúc chương 15 và kế đó chúng ta sẽ còn 13
chương nữa. Nếu kế hoạch tối Chúa nhựt cho phép, tôi dự tính giảng xong loạt
bài đi từng câu một qua sách Tin lành cho tới cuối năm hầu bắt đầu thiên niên kỷ
mới.
2. Một trong các
thuộc tính của Đức Chúa Trời là sự thương xót của Ngài. Ca thương 3:22 chép:
"Ấy là nhờ sự nhơn từ Đức Giê-hô-va mà chúng ta chưa
tuyệt. Vì sự thương xót của Ngài chẳng dứt". Chúa Jêsus là
hình ảnh bày tỏ ra Đức Chúa Trời hay thương xót của chúng ta. Ai có thể quên
các cảm xúc của Ngài dành cho đám dân đông ở Mathiơ 9:36: "Khi
Ngài thấy những đám dân đông, thì động lòng thương xót, vì họ khốn cùng, và tan
lạc như chiên không có kẻ chăn".
3. Trong phân đoạn
khá dài tối nay, chúng ta có ba bức tranh nói tới Đấng Christ hay thương xót.
Chúng ta sẽ xét qua từng bức tranh đó và rồi ứng dụng một số bài học về sự thương
xót.
I. Sự
thương xót dành cho người đờn bà khốn khổ (các câu 21-27).
A. Chúa Jêsus đã đi
qua xứ của dân Ngoại (câu 21). Chúa Jêsus "đi
từ đó", nghĩa là Ngài rời xứ Galilê rồi di chuyển qua phía tây bắc "vào
bờ cõi thành Tyrơ và Siđôn". Ngài rời khỏi phạm vi quyền
hạn của Hêrốt và các cấp lãnh đạo người Do thái. Ngài đến đó để nghỉ ngơi, mà cũng
làm thoả mãn các nhu cần của dân Ngoại sinh sống tại nơi ấy nữa. Chúa Jêsus là
Vua của người Do thái, nhưng há quí vị không vui sướng khi Ngài cũng là Vua của
chúng ta sao!?!
B. Chúa Jêsus gặp
một người đờn bà có đứa con gái bị quỉ ám (câu 22). Trong khi Ngài
có mặt ở đó "xảy có một người đờn bà Canaan " đến gặp Ngài. Mác
7:26 chép bà ta là "người Gờ-réc [dân Ngoại], dân
Sy-rô-phê-ni-xi". Bà ta không phải là người Do thái, nhưng điều đó
không giữ cho bà ta đừng thốt ra câu nói: "Lạy
Chúa, là con cháu vua Đa-vít, xin thương xót tôi cùng!" Bà ta vốn biết rõ
Ngài là ai và Ngài có lòng "thương xót". Bà ta nói con
gái của bà ta bị "quỉ ám, khốn cực lắm". Chúa Jêsus đã
trở thành nguồn trông cậy duy nhứt của bà ta.
C. Chúa Jêsus làm
thoả mãn nhu cần của bà ta chiếu theo đức tin của bà ta (các câu
23-28).
1. Không hay, "Ngài
chẳng đáp một lời". Đối với các rabi đương thời ấy, bà ta chẳng bằng được
một con người.
2. Bà ta không tỏ
ra nhu cần của mình, mà chỉ cứ kêu cầu với Chúa Jêsus. Bà ta chỉ quấy rối như
thế, các môn đồ nói: "Xin thầy truyền cho đờn bà ấy về,
vì người kêu van ở đằng sau chúng ta".
3. Sau cùng, Chúa
Jêsus phán với người đờn bà. Một lần nữa, Ngài đáp ứng dường như khá gay gắt:
"Ta chịu sai đến đây, chỉ vì các con chiên lạc mất của
nhà Y-sơ-ra-ên đó thôi".
4. Như thế vẫn chưa
đủ. Bà ta phủ phục xuống ở trước mặt
Ngài mà "lạy Ngài". Tôi gần như nghe được tiếng
thổn thức của bà ta khi bà ta nài nĩ: "Lạy
Chúa, xin giúp tôi cùng!"
5. Để thử bà ta,
Chúa Jêsus nói: "Không nên lấy bánh của con cái mà
quăng cho chó con ăn". Dĩ nhiên Ngài có ý nói rằng Ngài đến chủ yếu
với người Do thái chớ không phải đến với loài chó dân Ngoại. Tuy nhiên lời nói
của Ngài có ý đề cập tới loài chó kiểng nuôi trong nhà.
6. Hãy nghe lời đáp
của bà ta. Đây không phải là lời có tính cách tranh luận, lời nầy đến từ một tấm
lòng tìm kiếm của đức tin chân thật: "Lạy
Chúa, thật như vậy, song mấy con chó con ăn những miếng bánh vụn trên bàn chủ
nó rớt xuống".
7. Tôi nghĩ Chúa
Jêsus đã nở một nụ cười rộng cả dặm chớ không ít! Ngài phán: "Hỡi
đờn bà kia, ngươi có đức tin lớn; việc phải xảy ra theo ý ngươi muốn!" Câu 28 tiếp tục
nói như sau "Cũng một giờ đó, con gái người liền được lành".
II. Sự thương xót
dành cho đoàn dân đông (các câu 29-31).
A. Chúa Jêsus đi
qua một khu vực dân Ngoại khác (câu 29).
1. Chúa Jêsus "từ
đó đi đến gần Biển Galilê" nghĩa là có lẽ Ngài đã đi
vòng lên bờ biển phía Đông Bắc. Theo Mác 7:31, Ngài đã đến tại "địa
phận Đêcabôlơ" nhằm phía Đông Nam của Biển
Galilê. "Đêcabôlơ" có nghĩa là "10
thành phố" có ý nói tới 10 thành phố nằm trong khu vực đó.
2. Các chuyến đi
nầy, trước tiên đến "bờ cõi thành Tyrơ và Siđôn" còn bây giờ tại "địa
phận Đêcabôlơ" cả hai khu vực đều thuộc dân
Ngoại song đây chỉ là một cái nhìn thoáng qua những gì về sau sẽ hiển nhiên hơn
trong sách Công Vụ các Sứ Đồ, tin lành không những dành cho người Do thái mà
còn dành cho dân Ngoại nữa.
3. Khi Ngài đến tại
khu vực nầy, Chúa Jêsus "lên trên núi mà ngồi". Là Con Toàn Tri
của Đức Chúa Trời, Ngài vốn biết rõ điều chi sắp sửa diễn ra. Ngài vốn biết rõ
dân chúng sẽ kéo đến. Ngài đang sửa soạn để phục vụ họ.
B. Chúa Jêsus chữa
lành mọi thứ tật bịnh (câu 30).
1. Câu 30 chép rằng
khi ấy "có đoàn dân đông đến gần Ngài". Cả khu vực ấy đều
biết Chúa Jêsus vừa mới đến. 4:25 chép: "Vả lại, từ
xứ Ga-li-lê, xứ Đê-ca-bô-lơ, thành Giê-ru-sa-lem, xứ Giu-đê, cho đến xứ bên kia
sông Giô-đanh, thiên hạ kéo nhau rất đông mà theo Ngài".
2. Chúng ta cũng
không xem nhẹ sự làm chứng của "người đờn bà xứ Canaan". Quí vị có thể đoán
rằng câu chuyện của bà ta đã được tường thuật lại thật sâu rộng và có nhiều người
đã theo Ngài xuống từ Tyrơ và Siđôn.
3. Dĩ nhiên là “đoàn
dân đông” còn đem theo với họ những kẻ khốn cùng. Đặc biệt họ đem theo "những
kẻ què, đui, câm và tàn tật".
4. Phần mô tả "tàn
tật" rất là thú vị. Từ ngữ được sử dụng trong bản Kinh Thánh New KJV có ý
nói tới “lặt lìa”. Tuy nhiên, Chúa Jêsus đã sử
dụng từ Hy lạp nầy kullos (kool-los') để mô tả một người
có tay hay chân bị cụt trong Mathiơ 18:8. Vì lẽ đó từ ngữ nầy được sử dụng để
mô tả sự cắt bỏ hay mất đứt hoàn toàn một chi.
5. Những người bạn
nầy là mấy người bà con "để họ dưới chơn Chúa Jêsus". Dường như Chúa
Jêsus không di động qua đám đông, mà đám đông đã đến tại nơi Ngài đang “ngồi”. Có lẽ các môn đồ
đã sắp xếp cho họ ngồi thành hàng thật dài. Có lẽ họ dồn đống lại. Cho dù thế
nào đi nữa, chúng ta biết rõ sự thương xót của Chúa Jêsus làm bằng chứng cho "Ngài
chữa cho họ được lành". Điều nầy dường như cho thấy rằng Ngài đã chữa
lành cho họ cả thảy.
C. Dân chúng ngợi
khen Đức Chúa Trời (câu 31).
1. "Dân
chúng lấy làm lạ lắm”. "Lấy làm lạ" ra từ chữ Hy lạp
có nghĩa là "chú ý với lo sợ". Những gì họ trông thấy đều
là những việc siêu nhiên. Đây là một sự tuôn tràn không dứt của những sự chữa
lành bằng phép lạ xảy ra tức thì. Mác 7:37 chép: "Chúng lại lấy
làm lạ quá đỗi mà rằng: Ngài làm mọi việc được tốt lành".
2. Họ đã trông thấy
những gì vậy? Họ đã nhìn thấy "kẻ câm được nói, kẻ tàn tật được
khỏi, kẻ què được đi, kẻ đui được sáng".
John MacArthur viết:
"Tưởng tượng những tiếng kêu van xin cứu giúp pha trộn với
âm thanh vui mừng thì chẳng khó đâu, khi một số người chạy đến với Chúa Jêsus
thì bịnh tật, trong khi nhiều người khác đang rời khỏi đó được chữa lành và mạnh
khoẻ. Dân chúng kẻ đau bịnh vừa được chữa lành; còn có người thì đến với một
tay hay một chân khi ra về thì đủ tay đủ chân; có người thì mù loà, điếc lác
khi ra về thì họ hô to và nghe được. Có người chưa hề nói một câu nào giờ đây đang
hô lên những lời ngợi khen Chúa Jêsus. Có người chưa hề đi một bước nào giờ đây
nhảy nhót và chạy đi với niềm vui khôn xiết".
3. Họ đã đáp ứng
ra sao? Họ "đều ngợi khen Đức Chúa Trời của Israel". Họ vốn biết rõ
các thần dân Ngoại của họ không thể làm được những gì đang xảy ra ở trước mắt họ.
Họ biết rõ rằng Chúa Jêsus là một người Do thái và Ngài đã làm ra mọi sự nầy nhơn
danh Đức Giêhôva, vì vậy họ đã thờ lạy Ngài.
III. Sự thương xót
dành cho một đoàn dân đang đói khát (các câu 32-39).
A. Việc cho 4.000
người ăn là một phép lạ đặc biệt đối với việc cho 5.000 người
ăn.
1. Hai phép lạ nầy
đã bị những người thuộc phái phê bình công kích thực sự là hai phần mô tả mâu
thuẫn trong việc cho đoàn dân đông ăn trong chương 14. Có nhiều điểm khác biệt
trong hai sự cố nầy.
2. Bằng chứng mà
những người thuộc phái phê bình sử dụng là các môn đồ thắc mắc trong câu 33: "Ở
nơi đồng vắng nầy, ta há dễ kiếm đâu đủ bánh, đặng cho dân đông dường ấy ăn no
nê sao?" Ở phép lạ đầu tiên trong chương 14, các môn đồ đã
hoài nghi khả năng cho người ta ăn của Chúa Jêsus. Lần nầy, họ chỉ thắc mắc với
Chúa Jêsus làm sao Ngài cho đoàn dân đông ăn đây!?! Chúa Jêsus không hề làm
cùng một phép lạ hai lần đâu.
3. Có vài điểm
khác biệt lớn giữa hai phép lạ:
a. 5.000 người đã
ở với Chúa Jêsus chỉ trong một ngày thôi. Còn 4.000 người đã ở với Chúa Jêsus
những ba ngày.
b. Với phép lạ đầu
tiên, các môn đồ được truyền cho phải đi tìm đồ ăn. Với phép lạ thứ hai, họ đã
có sẵn đồ ăn rồi.
c. 5.000 người được
cho ăn từ 5 cái bánh và 2 con cá, trong khi 4.000 người được cho ăn từ 7 cái
bánh và "vài con cá".
d. Lần thứ nhứt, đám
đông được truyền cho phải ngồi xuống trên thảm cỏ. Lần thứ hai họ đã ngồi trên
mặt đất.
e. Với 5.000 người,
Chúa Jêsus đã chúc phước theo truyền khẩu của người Do thái. Với 4.000 người, đã
có hai lời cầu nguyện.
f. Sau phép lạ thứ
nhứt 12 giỏ bánh thừa còn dư lại. Sau phép lạ thứ hai, còn dư 7.
g. Trong câu 19,
Chúa Jêsus đưa ra một sự phân biệt giữa hai phép lạ cho các môn đồ thấy.
h. Sau cùng, các
phép lạ đã được làm ra vì hai nhóm người đối ngược nhau. 5.000 người kia đều là
khán thính giả người Do thái. Còn 4.000 người nầy phần lớn đều là dân Ngoại.
B. Chúa Jêsus luận lẽ với các môn đồ (các
câu 32-34).
1. Chúng ta đã học
biết trong câu 32 rằng đám dân đông giờ đây đã ở với Chúa Jêsus trong "ba
ngày". Dịch vụ chữa lành nầy không kết thúc trong một bữa trưa mà kéo dài tới
72 giờ đồng hồ. Chắc chắn mọi người kể cả Chúa Jêsus đều rất mệt mỏi. Tôi tin họ
đã ở lại và Ngài tiếp tục chữa lành cho tới chừng mọi nhu cần đều được thoả
mãn.
2. Tại điểm nầy,
Chúa Jêsus "gọi môn đồ đến". Không những Ngài muốn họ
hiểu điều gì đang xảy ra, mà còn phải hiểu rõ Ngài cảm nhận thể nào về dân
chúng nữa.
3. Ngài phán: "Ta
thương xót đoàn dân nầy; vì đã ba ngày ở cùng ta, bây giờ không có chi ăn hết".
4. "Thương
xót" ở đây đến từ một chữ Hy lạp có nghĩa là "cảm động ở
trong lòng" là chỗ người xưa suy nghĩ giống như ngai của tình cảm vậy. Từ ngữ nầy
dịch trong văn hoá của chúng ta là "một sự đau lòng". Có người xác định
từ nầy như sau: "cảm giác thông cảm sâu sắc, buồn rầu, kèm theo một
sự khao khát mạnh mẽ muốn cho nỗi đau khổ được vơi đi và cất bỏ nguyên nhân của
nó".
5. Chúa Jêsus đã động
lòng thương xót đối với mọi nhu cần thuộc linh của dân chúng. Ngài đã động lòng
thương xót trước sự đau khổ về phần xác của họ. Tuy nhiên, Ngài không ngừng lại
ở đó. Ngài đã động lòng thương xót đối với sự đói khát ở trong bụng của họ nữa.
6. Đôi khi chúng
ta, những người tin Chúa trong thời buổi hiện đại có thể trở nên thiển cận trước
nhu cần cấp bách của người ta. Trong khi tôi không có ý khích một “tin
lành xã hội”, chúng ta phải nhớ rằng đôi khi chúng ta có được cơ hội làm thoả mãn
nhu cầu quan trọng nhất (ơn cứu rỗi) của người ta nếu chúng ta làm thoả
mãn nhu cầu cấp bách nhất của họ (đói bụng). Đây là khuôn mẫu của Chúa
Jêsus.
7. Ngài phán: "Ta
không muốn để họ nhịn đói mà về, e phải mệt lủi dọc đường chăng". Mặc dù dân
chúng rất phởn phơ vì sự chữa lành của họ, mặc dù họ lấy làm vui vẻ lắm bởi sự
thờ lạy đáng kính sợ của họ, Chúa Jêsus không muốn họ “mệt lủi” hay xỉu trên đường
họ về nhà vì họ chưa ăn uống chi hết.
8. Kế đó, các môn
đồ đã hỏi thật ngô nghê, với cái nhìn đầu tiên thì thật là như thế: "Ở
nơi đồng vắng nầy, ta há dễ kiếm đâu đủ bánh, đặng cho dân đông dường ấy ăn no
nê sao?" Há họ chưa trông thấy Ngài cho một đoàn dân ăn còn đông
hơn ở gần Bếtsaiđa với khẫu phần ăn trưa của một cậu bé sao?
9. Rõ ràng họ đã
nhớ lại. Tôi tin họ muốn nói: "Lạy Chúa, chúng con vô quyền ở
chỗ nầy, trong đồng vắng hoang vu nầy, chúng con không thể cho đám dân nầy ăn
giống như cho đám dân đông hơn ăn ở gần Bếtsaiđa được". Chẳng có bằng chứng
nào cho thấy họ nghi ngờ Chúa Jêsus cả. Họ chỉ hỏi: "Ngài
muốn chúng con phải làm gì đây?"
10. Chúa Jêsus hỏi:
"Các ngươi có mấy cái bánh?" Nói cách khác:
"Từ số bánh mang theo, chúng ta còn bao nhiêu?" Họ đáp: "Có
bảy cái bánh, cùng vài con cá".
C. Chúa Jêsus cho
dân chúng ăn (các câu 35-39).
1. Chúa Jêsus "biểu
dân chúng ngồi xuống đất". Có lẽ một lần nữa Ngài đã bảo họ ngồi thành
từng nhóm một trăm và năm chục như Ngài đã làm lần trước (đối chiếu Mác
6:40).
2. Kế đó Ngài "lấy
bảy cái bánh và cá; tạ ơn rồi". Cũng vậy, quí vị có ngừng
lại để tạ ơn Chúa khi quí vị ngồi xuống ăn không? Nếu Chúa Jêsus đã tạ ơn,
chúng ta bày tỏ ra lòng biết ơn còn nhiều hơn, quan trọng hơn dường bao vì có “bánh ăn mỗi ngày”.
3. Chúa Jêsus "bẻ
bánh ra đưa cho môn đồ". Câu nầy cũng được dịch là "Ngài
cứ giữ việc bẻ bánh". Thức ăn càng tăng nhiều thêm thật lạ lùng ở trong
hai bàn tay Ngài. Các môn đồ khi ấy mới "phân phát
cho dân chúng".
4. Câu 37 chép "ai
nấy ăn" và tất cả đều "no cả". Chúa Jêsus làm
thoả mãn một cách hoàn toàn. Khi bữa ăn xong rồi, bánh thừa "lượm
được bảy giỏ đầy".
5. Từ Hy lạp nói
tới "giỏ" đề cập tới một cái giỏ lớn,
lớn đủ chứa một người lớn. Đây là loại giỏ mà Saulơ được dòng xuống trong đó
qua bức tường ở thành Đa mách (Công Vụ các Sứ Đồ 9:25).
6. Họ bắt đầu với
"bảy" cái bánh rồi kết thúc với "bảy
giỏ đầy". Chúa Jêsus đã phán trong Luca 6:38: "Hãy
cho, người sẽ cho mình; họ sẽ lấy đấu lớn, nhận, lắc cho đầy tràn, mà nộp trong
lòng các ngươi; vì các ngươi lường mực nào, thì họ cũng lường lại cho các ngươi
mực ấy".
7. Khi "số
người ăn là bốn ngàn, không kể đờn bà con trẻ" đều đã no nê rồi,
Chúa Jêsus mới sai họ về và dùng thuyền băng qua bờ cõi xứ "Magađan".
IV. Các bài học về
lòng thương xót.
A. Đức tin rất hay
lây.
1. "Người
đờn bà Sirô Phênixi" không nghi ngờ chi nữa đã giúp góp phần cho "đoàn
dân đông" chạy đến với Chúa Jêsus ở Đêcabôlơ.
2. Sự phấn hưng
tác động y như thế. Khi chúng ta tin Đức Chúa Trời đối với những việc lớn và
chúng ta thấy Ngài đang tác động trong đời sống của chúng ta, chúng ta không thể
giữ đức tin ấy cho chính mình. Chúng ta muốn phân biệt Đức Chúa Trời đang tác động
ở chỗ nào rồi hiệp tác với Ngài ở chỗ đó.
B. Chúa Jêsus là
một Cứu Chúa toàn năng.
1. Ngài "chữa
lành cho họ" cả thảy, thậm chí những kẻ "tàn
tật" hay hoàn toàn lặt lìa. Không những Ngài đã chữa lành cho họ, Ngài còn
cho họ ăn nữa. Ngài vốn quan tâm đến từng phương diện trong đời sống của họ.
2. Ngài vốn quan
tâm đến từng phương diện trong đời sống chúng ta nữa. Chúng ta cần phải đến với
Ngài cùng với từng nhu cần, cho dù nhu cần đó có nhỏ nhắn ra sao đi nữa.
3. II Phierơ 1:3
chép: "Quyền phép Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta mọi điều
thuộc về sự sống và sự tin kính…".
C. Chúng ta phải chia
sẻ trong ơn thương xót của Cứu Chúa. Hãy chú ý cách thức Chúa Jêsus đưa
các môn đồ vào trong sự phục vụ dân chúng. Về sau, trong Công Vụ các Sứ Đồ
chúng ta đọc thấy thể nào họ biết quan tâm đến người nghèo thiếu.
Có một phụ nữ từng
tìm cách ám sát Nữ Hoàng Elizabeth. Nữ Hoàng hỏi: "Nếu
ta gia ơn cho ngươi, ngươi sẽ đưa ra lời hứa như thế nào trong tương lai?" Phụ nữ kia ngước
mắt nhìn lên đáp: "Ơn có điều kiện, ơn có sự đề phòng,
thì chẳng phải là ơn chi cả". Nữ Hoàng suy nghĩ một chút
rồi nói: "Ngươi nói đúng. Ta tha cho ngươi theo ơn của ta". Lịch sử cho
chúng ta biết kể từ giây phút ấy Nữ Hoàng Elizabeth không cần có thêm tôi tớ
dâng mình trung tín hơn người đờn bà từng dự tính cất lấy mạng sống của bà.
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét