MATHIƠ –
VUA CÁC VUA
Còn tấm
lòng của quí vị thì sao?
Mathiơ 14:4 – 15:20
1. Trước khi
chúng ta đào sâu vào phân đoạn Kinh Thánh nầy, tôi muốn quí vị cùng xem với tôi
một vài phân đoạn Cựu Ước. Thứ nhứt, chúng ta hãy xem qua Êsai 1:13-20. Trong chương mở
đầu của sách tiên tri nầy, Đức Chúa Trời làm cho dân sự của Ngài nhìn biết sự
thay đổi đột ngột của Ngài nơi sự thờ lạy giả hình, không thành thật của họ.
Bây giờ chúng ta hãy nhìn vào chương cuối của cùng sách ấy, 66.1-3.
2. Từ hai tiểu đoạn trong Kinh
Thánh Cựu Ước chúng ta kiếm được một lẽ thật thiêng liêng: Đức Chúa Trời gần như
chẳng ưa những cách thức bề ngoài mà chúng ta tỏ ra cho bằng Ngài ưa thích nơi
tình trạng của tấm lòng chúng ta. Ngài phán trong Amốt 5:21-24: "Ta ghét; ta khinh dể những kỳ lễ của các ngươi; ta
không đẹp lòng về những hội trọng thể của các ngươi đâu. Dầu các ngươi dâng những của lễ thiêu và của
lễ chay cho ta, ta sẽ không nhận lấy; ta chẳng đoái xem những con thú mập về của
lễ thù ân các ngươi. Hãy làm cho tiếng của các bài hát các ngươi xa khỏi ta! Ta
không khứng nghe tiếng đờn cầm của các ngươi. Thà hãy làm cho sự chánh trực chảy
xuống như nước, và sự công bình như sông lớn cuồn cuộn".
Sau khi phạm tội với Bátsêba, David đã nhận biết điều nầy. Ông đã nói trong Thi
thiên 51.16-17: "Vì Chúa không ưa thích của
lễ, bằng vậy, tôi chắc đã dâng; Của lễ thiêu cũng không đẹp lòng Chúa: Của lễ đẹp
lòng Đức Chúa Trời, ấy là tâm thần đau-thương: Đức Chúa Trời ôi! lòng đau-thương
thống-hối Chúa không khinh dể đâu".
Đức Chúa Trời không hề thay đổi. Ngài không bao giờ thay đổi. Ngài đang
cảm nhận y như thế hôm nay.
3. Khi Đức Chúa
Trời xem xét Hội thánh nầy hay Hội thánh kia, Ngài chẳng có ấn tượng gì với chất
lượng âm nhạc, tính hiệu quả của mọi chương trình, hay thậm chí số lượng người đến
nhóm lại của chúng ta. Đức Chúa Trời nhìn xem tấm lòng của chúng ta. Ngài tìm
kiếm những cách thể hiện hết lòng, chơn thật trong sự thờ phượng.
4. Trong phân đoạn
Kinh Thánh hôm nay, Chúa Jêsus nhìn xem tấm lòng của ba nhóm người: những người
với đức tin yếu đuối, đức tin tự xưng công bình và đức tin đang tấn tới. Khi
chúng ta tra xét phần đáp ứng của Ngài đối với từng nhóm người nầy, hãy nhận biết
rằng Ngài cũng đang tra xét tấm lòng của quí vị nữa đấy.
I. Chúa
Jêsus động lòng thương xót đối với những kẻ có đức tin yếu đuối (các câu 24-26).
A. Một lần nữa, đoàn
dân đông đã đến tìm kiếm sự chữa lành (các câu 34-35).
1. Quí vị hãy nhớ
lại ở phần đứng trước tiểu đoạn nầy, Chúa Jêsus đã cho 5000 người ăn và rồi đã
hiện ra với các môn đồ, Ngài đi bộ trên Biển Galilê ở giữa một trận bão lớn.
Câu 32 chép: "khi họ lên thuyền rồi, thì gió yên lặng". Giăng 6:21 chỉ
ra một việc siêu nhiên khác đã diễn ra: "Bấy giờ,
môn đồ muốn rước Ngài vào thuyền; tức thì chiếc thuyền đậu vào bờ, là nơi định đi".
2. Họ đến tại "xứ
Ghênêxarết", một khu vực nông nghiệp phì nhiêu giữa
Cabênaum và Mađala. Tại địa điểm đẹp đẽ tốt tươi nầy, có lẽ Chúa Jêsus một lần
nữa dự tính Ngài và các môn đồ đã kiệt sức cần thì giờ nghỉ ngơi.
3. Dường như ngay
lập tức Ngài bị người ta "nhận biết" và họ "sai
người báo tin cho khắp các miền xung quanh". Người ta kéo
nhau tới, họ đem đến cho Ngài "các kẻ bịnh".
B. Một lần nữa,
Chúa Jêsus đã chữa lành cho những kẻ có bịnh (câu 36).
1. Dân chúng vốn
biết nhiều về Chúa Jêsus. Có lẽ họ đã nghe câu chuyện nói về người đờn bà bị bịnh
mất huyết đã được chữa lành bởi cái chạm nơi "viền áo
Ngài". Họ đã có chính niềm hy vọng ấy và đã "xin" Ngài cho phép họ
cũng được rờ đến Ngài.
2. Với lòng thương
xót lớn lao, Chúa Jêsus đã cho phép họ làm thế và "ai
rờ đến cũng đều được lành bịnh cả". Quí vị không thể
hình dung được bối cảnh ấy sao?
3. Mặc dù Chúa
Jêsus muốn chữa lành cho thân thể họ, Ngài còn muốn chữa lành cho linh hồn họ
nhiều hơn nữa. Ngài không những muốn làm thoả mãn mọi nhu cầu cấp bách của họ,
Ngài còn muốn làm thoả mãn mọi nhu cần đời đời của họ nữa. Phần nhiều người
trong số dân đông ấy giống với những kẻ mà chúng ta gặp gỡ hôm nay, họ tìm kiếm
Đức Chúa Trời vì những thứ họ cần và chẳng quan tâm mấy đến những gì Ngài mong
muốn. Phải, Chúa Jêsus đã làm thoả mãn mọi nhu cần của họ không cứ là
nhu cần gì.
MacArthur mô tả sự
ấy như thế nầy: "Vì họ không xin một bữa ăn đầy, Ngài đã không từ
chối không cho họ một miếng bánh. Vì họ đã không xin Ngài cứu giúp về mặt thuộc
linh, Ngài đã không từ chối không giúp họ về mặt thuộc thể. Mặc dù họ hời hợt,
vô ơn và chỉ biết lấy cái tôi làm trọng, Ngài động lòng thương xót chữa lành
cho họ hầu tỏ ra tấm lòng đầy sự thương xót của Đức Chúa Trời".
4. Có một bài học
cho Hội thánh chúng ta ở đây. Chúng ta phải làm thoả mãn cho người ta ở nơi họ
sinh sống trước khi chúng ta có thể giúp họ sống ở nơi mà Đức Chúa Trời muốn họ
sống. Chúng ta phải bằng lòng với tình yêu thương làm thoả mãn mọi nhu cần của
họ hầu cho có được cơ hội làm thoả mãn mọi nhu cần đời đời của họ.
II. Chúa Jêsus có
sự xét đoán đối với những kẻ có đức tin tự xưng công bình (các câu 1-9).
A. Thắc mắc của
người dòng Pharisi (các câu 1-2).
1. Mặc dù Chúa
Jêsus động lòng thương xót đối với những kẻ muốn có điều chi đó ra từ Ngài,
Ngài có sự xét đoán đối với những kẻ chẳng muốn chi ra từ Ngài. Đây đúng
là trường hợp khi "mấy người Pharisi và mấy thầy thông
giáo" xuất hiện trên bối cảnh.
2. Họ là những
tên thám tử đã đến từ "thành Jerusalem ". Họ đã tìm kiếm
sẵn một phương thức để vu cáo và giết Ngài.
3. Họ hỏi: "Sao
các môn đồ thầy phạm lời truyền khẩu của người xưa? Vì họ không rửa tay trước
khi ăn". Đây không phải là vấn đề của sự thanh sạch mà là vấn đề của “truyền
khẩu đời xưa”.
4. Trải qua nhiều
thế kỷ kể từ khi Đức Chúa Trời ban bố luật pháp của Ngài qua Môise, các nhà
lãnh đạo người Do thái đã thêm thắt những cách lý giải của họ về luật pháp. Điều
nầy được gọi là "truyền khẩu của người xưa". “Những
lời truyền khẩu” nầy đã được xem trọng, người Do thái hiển nhiên đã
xem mọi lối lý giải nầy còn cao hơn cả chính mình Kinh Thánh nữa.
5. Còn về trường
hợp rửa tay. Các rabi dạy rằng có một con quỉ có tên là Shibtah tự nhập vào hai
bàn tay của con người trong khi họ còn ngủ mê và rồi nhập vào thân thể họ qua
thức ăn từ bàn tay của họ. Vì thế họ đã cẩn thận rửa tay trước khi ăn hoặc họ sẽ
không ăn uống chi hết.
6. Các môn đồ đã
không phá vỡ luật pháp của Đức Chúa Trời. Lời của Đức Chúa Trời thậm chí không
hề nhắc tới một việc càn dỡ như vậy. Chắc chắn có nghi thức rửa tay trong Cựu Ước,
song đấy chỉ là những dấu hiệu bên ngoài của các lẽ thật thuộc linh.
B. Phản ứng của
Chúa Jêsus (các câu 3-9).
1. Chúa Jêsus đáp
trả thắc mắc nầy bằng cách hỏi lại một câu hay hơn: "Còn
các ngươi sao cũng vì cớ lời truyền khẩu mình mà phạm điều răn của Đức Chúa Trời?" Ngài chẳng màng tới
những lời truyền khẩu của loài người nhưng tuyệt đối quan tâm đến Lời của Đức
Chúa Trời.
2. Ngài nhắc tới điều
răn thứ 5 trong câu 4 cũng chỉ ra án phạt cho những ai "mắng
nhiếc cha mẹ".
3. Hãy chú ý sự
khác biệt trong câu 4 và câu 5: "Vì Đức Chúa Trời đã truyền…
nhưng các ngươi lại nói…". Truyền khẩu của người xưa dạy
rằng một người có thể dâng hiến hết thảy tiền bạc và của cải của mình như "của
dâng cho Đức Chúa Trời" và người ấy "không cần
phải hiếu kính cha mẹ". Việc nầy giống như có tiền bạc biệt riêng
ra cho việc xây cất nhà thờ hay dâng cho một chức vụ nào đó và rồi từ chối
không sử dụng số tiền ấy phụ giúp cho cha mẹ đã cao tuổi đang có cần vậy.
4. “Lời
truyền khẩu” nầy chẳng có gì khác hơn một phương thức khéo léo
trong việc lẫn tránh trách nhiệm gắn bó với điều răn thứ 5. Đây là một lời cáo
lỗi cho việc bất tuân Đức Chúa Trời. Họ đang sử dụng việc dâng hiến cho Đức
Chúa Trời như một lời cáo lỗi để không làm theo những điều Đức Chúa Trời đã
truyền dạy. Không có gì phải ngạc nhiên khi Chúa Jêsus gọi họ là "kẻ
giả hình".
5. Bởi “lời
truyền khẩu” của họ, họ cho "điều răn của Đức Chúa Trời" là không có hiệu
lực nữa. Những kẻ giả hình, khi ấy và bây giờ cũng y như thế. Họ thích cái vẻ bề
ngoài của tôn giáo và vẻ đứng đắn bên ngoài song lại là ích kỷ và lấy cái tôi
làm trọng ở bên trong.
6. Chúa Jêsus
phán: "Êsai đã nói tiên tri về các ngươi là phải lắm…" "Êsai
đã mô tả các ngươi… Êsai có một mục tiêu khi ông ấy nói tới các ngươi…" Mặc dù vị tiên
tri đã nói với thế hệ của chính ông, lời nói của ông là đầy đủ cho hạng người
giả hình khi ấy và bây giờ, các câu 8-9. II Timôthê 3.5
mô tả hạng người thể ấy là "bề ngoài giữ
điều nhơn đức, nhưng chối bỏ quyền phép của nhơn đức đó".
7. Đồng minh thân
thiết nhất của Satan chính là những "kẻ giả
hình". Quí vị có thể là một kẻ giả hình đáng tin sao? Tôi nghĩ…hết thảy đều
có một ít giả hình đó. Đấy là lý do tại sao chúng ta cần phải biết chắc tấm
lòng của chúng ta đang ở gần Đức Chúa Trời, chớ không phải đang ở cách xa Ngài.
8. Chúa Jêsus
không thiếu lòng thương xót dành cho người nghèo thiếu, nhưng Ngài chẳng nói một
lời nào với các đối tượng giả hình… chúng ta cũng không nên nói một lời nào với
họ.
III. Chúa Jêsus có
sự chỉnh sửa với hạng người có đức tin đang tấn tới (các câu 10-20).
A. Chúa Jêsus
chia sẻ nguyên tắc ô uế với đoàn dân đông (các câu 10-11).
1. Giờ đây Chúa
Jêsus "gọi đoàn dân đến" để "nghe
và hiểu" một lẽ đạo quan trọng. Ngài
làm thoả mãn mọi nhu cầu, tiếp đến Ngài dạy đạo.
2. Dân chúng đã
nghe sự trao đổi của Ngài với các nhà lãnh đạo tôn giáo và Ngài sử dụng thì giờ
vàng ngọc nầy để giúp cho họ hiểu rằng sự ô uế không đến từ bên ngoài, mà đến từ
bên trong (câu 11). Chúng ta được sanh ra đã bị
ô uế!
3. Có một vấn đề
quan trọng với sự ô uế trong thế giới của chúng ta. Là Cơ đốc nhân, chúng ta có
một trách nhiệm đạo đức phải canh giữ sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Chúng ta
phải quan tâm tới sự ô uế về mặt thuộc linh. Từ ngữ "dơ
dáy" trong câu 11 có ý nói tới "ô uế hay
làm cho dơ dáy".
B. Chúa Jêsus
chia sẻ các điểm đặc trưng của sự ô uế với
các môn đồ (các câu 12-20).
1. Mác 7.17 cho
chúng ta biết ở điểm nầy Chúa Jêsus "vào trong
nhà, cách xa đoàn dân". Các môn đồ, có lẽ đã hỏi với
nỗi sợ hãi: "Thầy có hay rằng người Pha-ri-si nghe lời thầy nói mà
phiền giận chăng?" Tất nhiên Ngài biết rõ họ đã "phiền
giận", Ngài cố ý làm mất lòng họ! Hãy tiếp thu điều nầy: những
kẻ giả hình LUÔN LUÔN bị mất lòng bởi lẽ thật!
2. Không những hạng
người giả hình bị mất lòng bởi lẽ thật, họ còn bị định cho sự phán xét nữa. Họ
là thứ cỏ lùng mà "Cha trên trời không trồng" cùng lượt với lúa
mì, và họ sẽ bị "nhổ đi" rồi bị ném vào ngọn
lửa.
3. Chúa Jêsus đã đưa
ra một lời cảnh cáo mạnh mẽ về hạng người thể ấy: "Hãy
để vậy". Thậm chí đừng đến gần họ nữa. Quí vị không phải "quăng
ngọc trai cho heo". Đừng phí thì giờ với những
kẻ không chịu nghe lẽ thật.
4. Tại sao vậy? Họ
rất nguy hiểm và dẫn người ta đi lạc đường. Họ bị “mù”
về
mặt thuộc linh và sẽ nhóm nhiều người khác quanh họ, họ cũng bị “mù” và hết thảy họ sẽ
cùng nhau “té xuống hố” (nghĩa là, chịu phán
xét).
5. Phierơ thấy thật
là khó tin rằng các cấp lãnh đạo tôn giáo đáng kính lại bị “mù” về mặt thuộc
linh. Ông thấy khó chấp nhận sự thực ô uế lại xuất phát từ bên trong, vì vậy
ông đã nói: "Xin thầy cắt nghĩa lời ví dụ ấy cho chúng
tôi".
6. Chúa Jêsus
phán: "Các ngươi cũng còn chưa hiểu biết sao?" Quí vị có nhận
thấy sự buồn rầu trong giọng nói của Ngài chăng? Các môn đồ, sau hơn 2 năm truyền
giáo vẫn chưa nhìn thấy sự khác biệt giữa cái gì là thuộc thể, cái gì là thuộc
linh.
7. Vì vậy, Chúa
Jêsus phán: "Vật gì vào miệng thì đi thẳng xuống bụng, rồi phải bỏ
ra nơi kín đáo". Đồ ăn theo phần xác sẽ
không làm hại về mặt thuộc linh. Nó đi ngang qua thân thể. Mác 7:19 nói sở dĩ
như vậy là "vì sự đó không vào lòng người".
8. Ngược lại, điều
chi "ra từ tấm lòng" ra từ tâm linh,
linh hồn và tâm thần: "thì những điều đó làm dơ dáy người".
9. Trong tấm lòng
của con người tự nhiên là "ác tưởng,
những tội giết người, tà dâm, dâm dục, trộm cướp, làm chứng dối, và lộng
ngôn". Danh sách nầy còn nữa và dài lắm. Khi quí vị nhìn vào danh sách ấy quí
vị phải nhìn nhận rằng mọi sự đó đều có trong lý trí của mình không lúc nầy thì
lúc khác. Chúng đến từ đâu? Chúng đã đến từ “tấm lòng” của quí vị.
Giêrêmi 17:9 chép: "Lòng người ta là dối trá hơn mọi vật,
và rất là xấu xa: ai có thể biết được?"
10. Trong 23:27,
Chúa Jêsus phán với người Pharisi: "Khốn cho
các ngươi, thầy thông giáo và người Pha-ri-si, là kẻ giả hình! vì các ngươi giống
như mồ mả tô trắng bề ngoài cho đẹp, mà bề trong thì đầy xương người chết và mọi
thứ dơ dáy".
Chúa Jêsus đang nhìn vào tấm lòng của chúng ta. Ngài làm
thoả mãn mọi nhu cần của chúng ta nơi chúng ta sinh sống, nhưng Ngài nhìn xem tấm
lòng của chúng ta. Ngài là Đấng duy nhứt có thể biến tấm lòng dơ dáy thành một
tấm lòng thanh sạch.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét