MATHIƠ
– VUA CÁC VUA
Bằng chứng
trong một
cơn bão nghi ngờ
Mathiơ 14:22-33
1. Max Lucado viết:
“Có những trận bão tuyết. Có những trận mưa đá. Có những cơn mưa
giông. Và có những trận bão nghi ngờ. Thường thì có từng trận bão nghi ngờ cuốn
vào đời sống tôi, đem theo với nó là những cơn gió mạnh nhiều thắc mắc và các
trận gió sợ hãi mạnh cấp 10. Và, không bao lâu sau khi nó đến, một tia sáng chiếu
qua nó. Đôi khi giông bão đến sau phần tin tức buổi tối. Một vài đêm tôi lấy
làm lạ khi biết tại sao tôi lại trông ngóng nó.
Một vài đêm giông gió nhiều… Đôi khi tôi lấy làm lạ “Không biết sao thế
giới của chúng ta lại hỗn độn đến thế?” Đôi lúc giông bão đến khi tôi đang làm
việc. Hết chuyện nầy đến chuyện khác trong các gia đình sẽ không chữa lành và
nhiều tấm lòng không hề tan vỡ. Luôn luôn có những thứ đáng khao khát hơn đồ ăn.
Có nhiều nhu cầu còn cần hơn là tiền bạc. Có nhiều thắc mắc hơn là câu trả lời.
Vào những ngày Chúa nhật, tôi đứng trước một Hội thánh với bố cục gồm ba điểm
trong tay và một lời cầu nguyện trên môi miệng mình. Tôi làm hết sức mình để
nói ra điều sẽ thuyết phục một người lạ rằng một Đức Chúa Trời không thấy được
bằng mắt thường vẫn còn lắng nghe” (In the Eye of the Storm
[Trong con mắt bão], p.125).
2. Trong phân đoạn
Kinh Thánh quan trọng nầy, chúng ta thấy các môn đồ đang ở trong sự thương xót
của một trận bão biển và một cơn bão nghi ngờ. Tuy nhiên, ở giữa nỗi sợ hãi và
nghi ngờ của họ, Chúa Jêsus đang minh chứng một lần đủ cả cho họ thấy về lai lịch
thiêng liêng của Ngài. Câu 33 là đỉnh cao của câu chuyện. Sau một đêm giông
bão, họ kiếm được đức tin mới và công bố: "Thầy thật
là Con của Đức Chúa Trời". Điều nầy dường như chẳng có gì là bất thường
đối với chúng ta, song hãy nhớ, đây là lần đầu tiên 12 người đồng tuyên bố Chúa
Jêsus chính là Con Đức Chúa Trời.
3. Nếu quí vị đang
ở giữa một trận bão nghi ngờ, nếu quí vị đang ở giữa một cơn khủng hoảng đức
tin, tôi nguyện rằng Thánh Linh của Đức Chúa Trời sẽ dạy dỗ quí vị từ Lời của Đức
Chúa Trời để tin cậy vào quyền phép chấm dứt giông bão của Con Đức Chúa Trời.
Chúng ta hãy xem xét 5 bằng chứng về lai lịch của Chúa Jêsus.
I. Bằng
chứng về uy quyền của Chúa Jêsus (các câu 22-23).
A. Chúa Jêsus có quyền sai
phái các môn đồ (câu 22a).
1. Tuần rồi chúng ta đã học
biết thể nào Chúa Jêsus đã cho đoàn dân đông ước chừng "năm
ngàn, không kể đờn bà, con nít" ăn. Chúng ta có
thể lượng chắc với số "đờn bà và con nít"
đám đông
đó có ít nhất là 15.000 người.
2. Giăng nói cho chúng ta biết
rằng họ đã xem Ngài là Đấng Mêsi và "họ có ý ép
Ngài để tôn làm vua" (Giăng 6.15). Để ngăn cản điều đó không xảy
ra, "Ngài bèn lui ở một mình trên núi". Khi ấy, chưa đến
lúc để cho Ngài làm vua.
3. Các môn đồ, không nghi ngờ
chi nữa, họ rất phấn khích bởi lòng mong mỏi của đám dân đông. Sau cùng Chúa
Jêsus đã được công nhận cách công khai. Giờ đây Ngài sẽ thiết lập vương quốc của
Ngài. Giờ đây Ngài sẽ lãnh đạo đám đông nầy gạt bỏ sự áp bức của người La mã.
Bây giờ là cơ hội thuận tiện đến nắm lấy Nước! Tôi e rằng cũng có một số người
nghĩ tới các địa vị cao trọng mà không bao lâu nữa họ sẽ được hưởng.
4. Sau khi nhận biết mọi tư
tưởng của họ và ảnh hưởng của đám dân đông, "Ngài liền hối
môn đồ xuống thuyền, qua trước bờ bên kia". Họ dễ bị tác động trước
các kế hoạch thiên về chính trị của dân chúng và Chúa Jêsus muốn họ sớm rời khỏi
nơi đó.
5. "Bờ
bên kia" chỉ là một chuyến đi ngắn băng
ngang đỉnh phía Bắc của Biển Galilê. Họ tưởng Ngài sẽ đi bộ quanh bờ biển và
không bao lâu nữa sẽ gặp lại họ.
6. Rõ ràng là họ không muốn
rời khỏi Chúa Jêsus. Sự thật cho thấy rằng Ngài đã "hối" [sát nghĩa là
"thúc giục mạnh mẽ] họ "xuống thuyền" chứng thực cho điều
nầy. Họ không muốn rời khỏi Chúa Jêsus. Họ cảm thấy lạc lỏng và dễ bị nguy hiểm
nếu như không có Ngài, giống như một đứa trẻ ở xa cách bố mẹ của nó vậy.
7. Tuy nhiên, họ đã tin cậy
vào UY QUYỀN của Chúa Jêsus. Khi Ngài bảo họ phải ra đi, thì họ
bèn đi.
B. Chúa Jêsus có quyền sai
phái đoàn dân đông (các câu 22b-23a).
1. Mặc dù đoàn dân đông đã
tìm cách tôn Chúa Jêsus làm vua, họ không thể tôn Ngài làm vua ngược lại với ý
chỉ của Ngài được. Đặc biệt hãy chú ý "Ngài đang
truyền cho dân chúng tan đi". Khi Ngài hối các
môn đồ xuống thuyền dong buồm băng ngang qua hồ, Ngài đã truyền cho "dân
chúng" tan đi.
2. Mới đây tôi có học biết về
cách chế ngự đám đông ở Trường Cảnh Sát. Tôi có thể nói
cho quí vị biết, quí vị rất khó chế ngự 100 người, phương chi là 5.000 hay
15.000 người.
3. Chúa Jêsus hoàn toàn có
uy quyền trên số người nầy. Làm cho đám đông tan đi không là vấn đề gì đối với
Ngài, là Đấng có quyền đuổi cả một đạo binh ma quỉ. Làm cho đám đông tan đi chỉ
là những quả cà chua nhỏ đối với Đấng sẽ trục xuất Satan vào hồ lửa cho đến đời
đời.
C. Chúa Jêsus có quyền đánh đuổi
Satan (câu 23b).
1. Sự cám dỗ của Chúa Jêsus
không bắt đầu cũng không kết thúc trong đồng vắng trước khi Ngài bắt đầu thi
hành chức vụ của Ngài. Luca 4.13 chép ma quỉ "bèn tạm lìa
Ngài". Không nghi ngờ chi nữa Ngài đã bị cám dỗ ngay cả trong hoàn cảnh nầy.
Ngài đã bị cám dỗ phá hỏng chương trình của Đức Chúa Cha.
2. Giống như sự cám dỗ trong
đồng vắng, Chúa Jêsus bị cám dỗ được người ta muốn tôn lên làm vua, để lật đổ
Rôma và không phải chịu nỗi đau và sự sĩ nhục của thập tự giá, để tránh né sự
thương khó làm người mang lấy tội lỗi của chúng ta.
3. Tuy nhiên, hãy chú ý điểm
đặc biệt của Chúa Jêsus khi ở dưới sự cám dỗ. Đây không phải là sự yên nghỉ cho
cơ thể yếu sức của Ngài, mà là sự cầu nguyện. "Ngài lên
núi để cầu nguyện riêng".
4. "Ngài
một mình" ở đó khi "chiều
tối". Trời khi ấy vào giữa 6 đến 9 giờ tối.
II. Bằng chứng về
tri thức của Chúa Jêsus (các câu 24-25).
A. Chúa Jêsus vốn biết rõ về
trận bão (câu 24).
1. Không bao lâu sau khi môn
đồ rời khỏi Chúa Jêsus, họ thấy mình đang ở giữa trận bão.
2. Họ bị kéo ra "giữa
biển" (sát nghĩa, cách xa đất liền nhiều hải lý). Giăng 6.19 chép họ đã
chèo ra "độ chừng hai mươi lăm hay là ba mươi
ếchtađơ". Trong một chuyến đi bình thường băng ngang qua Biển
Galilê ở đỉnh phía Bắc, họ phải vượt biển khoảng chưa đầy một dặm tính từ bờ.
Rõ ràng cơn bão đã khiến cho họ bị đẩy ra xa hơn về phía Nam ở "giữa
biển".
3. Họ bị "sóng
vỗ" vì "gió ngược". Họ bị đẩy ra xa hơn nơi họ
định đến thay vì gần hơn. Mác 6.48 chép họ "chèo khó nhọc
lắm".
4. Các môn đồ đã bị Chúa bảo
phải đi xa khỏi chỗ vừa tìm được lòng người, giờ đây họ đang ở chỗ chắc phải chết
mất. Điều tệ hại nhất là Chúa Jêsus không có mặt với họ. Trong 8.26 chúng ta đọc
thấy thể nào Ngài đã "quở gió và biển" trong một trận
bão ngoài biển trước đây. Tuy nhiên, Ngài không ở với họ lần nầy. Ngài ở cách đấy
vài dặm đường.
5. Tôi hình dung thấy họ kêu
gào lên: "Nếu chỉ có Chúa Jêsus ở đây!" Sự thật là, Chúa
Jêsus đã có mặt ở đó, mặc dù về mặt thuộc thể Ngài ở cách đấy vài dặm đường.
Chúa Jêsus vốn biết chính xác họ đang gặp phải điều gì rồi. Ngài vốn biết rõ cấu
trúc phân tử của từng giọt nước bên dưới và bên trên họ.
B. Chúa Jêsus biết rõ Ngài sẽ
làm gì (câu 25).
1. Chúa Jêsus đã chờ đợi cho
tới chừng "canh tư đêm ấy" trước khi ra tay can thiệp.
"Canh tư" là từ 3 - 6 giờ
sáng. Nếu họ rời bến từ 6 giờ chiều, điều nầy có nghĩa là họ đã ở trên thuyền
khoảng 9 tiếng đồng hồ.
2. Ngài cố ý đợi một thời
gian dài trước khi Ngài "đến cùng môn đồ". Có một sự tương
ứng ở đây, ấy là Ngài đã đợi cho tới khi Laxarơ chết trước khi Ngài đến cùng
Mary và Mathê. Trong cả hai trường hợp, Ngài có thể đến sớm hơn, Ngài có thể
làm ra phép lạ mà không cần phải có mặt. Ngài có thể ngăn trở cơn bão trong chỗ
thứ nhứt. Thế nhưng, vì tri thức vô hạn của Ngài, Ngài biết tốt nhứt là để cho
họ đối mặt với trận bão.
3. Có còn nhớ bài học về mấy
cái bánh và hai con cá kia không? Họ đã tìm khắp mọi nơi để kiếm câu trả lời
cho nan đề trước khi quay sang Chúa Jêsus. Ở đây cũng chính bài ca ấy và là câu
thứ hai. Vấn đề trước là đồ ăn, chớ không phải là đức tin. Giờ đây họ đã chú
vào sợ hãi thay vì chú vào đức tin.
4. Chúa Jêsus không hề quên
họ. Ngài "đi bộ trên mặt biển" mà đến với họ.
III. Bằng chứng về
sự bảo hộ của Chúa Jêsus (các câu 26-27).
A. Các môn đồ biết chắc số
phận của họ (câu 26).
1. Khi Chúa Jêsus "đi
bộ trên mặt biển" mà đến với họ, Ngài đã đi từ phía sau lưng rồi tới
bên cạnh và "muốn đi trước họ" theo Mác 6.48.
2. Khi Ngài đến bên cạnh và
họ đã trông thấy Ngài, họ lấy làm "bối rối" lắm. Một cách dịch
hay hơn là "lấy làm kinh khủng". Họ đã tin Ngài là một "con
ma", một hồn ma. Ngay khi trận bão chẳng làm gì tệ hại hơn, một hồn
ma đã đến để ám ảnh họ! Tình trạng vô vọng của họ chuyển thành kinh khủng hoàn
toàn và họ chẳng làm chi khác hơn là "sợ hãi mà
la lên".
3. Họ tưởng Ngài là một "con
ma" vì họ không mong nhìn thấy Ngài!
B. Chúa Jêsus tái khẳng định
với họ về sự hiện diện có tính cách bảo hộ của Ngài (câu 27).
1. Để cho nỗi sợ hãi của họ
vơi đi, Ngài "liền phán" với họ. Họ đã nhận ra Ngài
qua cơn bão, nhưng họ biết rõ giọng nói của Ngài. Ngài phán trong Giăng 10.27: "Chiên
ta nghe tiếng ta… và nó theo ta".
2. Chúa Jêsus phán: "Các
ngươi hãy yên lòng" đúng nghĩa là "hãy can đảm
lên". Khi ấy Ngài phán: "Ấy là ta đây, đừng sợ". Câu nầy dịch
"TA LÀ".
3. Không một chỗ nào Chúa
Jêsus không thể tìm gặp chúng ta. Ngài sẽ không bao giờ quên chúng ta. Cho nên
không có một lý do gì phải sợ cả. MacArthur nói: "Chỗ an ninh
không phải là chỗ hoàn cảnh tiện nghi, mà là chỗ vâng theo ý muốn của Đức Chúa
Trời". Amen! Đừng lo về các hoàn cảnh mà phải vâng phục.
IV. Bằng chứng về
tình yêu thương của Chúa Jêsus (các câu 28-31).
A. Đức tin của Phierơ đặt nơi
tình yêu thương của Chúa Jêsus (các câu 28-29).
1. Tôi dám chắc Phierơ đã nhận
ra Chúa, "Nếu phải Chúa" không phải là một
sự thách thức cho lai lịch của Chúa Jêsus vì Phierơ không cố gắng nói ra một
câu như vậy nếu ông ta không biết chắc mình đang nói chuyện với Chúa, chớ không
phải nói với một “con ma”.
2. Với sự vui mừng tột độ,
ông ta kêu la lên: "Xin khiến tôi đi trên mặt nước mà đến
cùng Chúa". Không những ông ta rất thích thú. Ông ta còn muốn đi
trên mặt nước với Chúa Jêsus hơn là ở trong thuyền mà không có Ngài. Mặc dù
Phierơ đã làm buồn lòng Chúa nhiều lần, tình cảm ông dành cho Chúa Jêsus là một
tình cảm chân thật.
3. Chúa Jêsus phán: "Hãy
lại đây" và Phierơ vui sướng đến cùng Ngài. Ông ta cũng
"đi bộ trên mặt nước". Chúa Jêsus đã mĩm
cười với vẻ yêu thương qua cơn bão!
B. Đức tin của Phierơ chuyển
thành sợ hãi (câu 30).
1. Phierơ để ý thấy "gió
thổi". Ông ta chú vào cơn bão thay vì chú vào Chúa Jêsus và đã "sợ
hãi". Khi nỗi sợ của ông ta càng lớn lên, ông ta bắt đầu "sụp
xuống nước".
2. Bất cứ lúc nào chúng ta bước
đi bởi đức tin, cơn bão dường như sẽ mạnh hơn và những mối nghi ngờ sẽ dấy lên.
Dù vậy, tôi muốn bước đi trong sự vâng phục và đức tin với Chúa Jêsus trong cơn
bão hơn, đối diện với những nghi ngờ của mình hơn là cứ ở lì trong chiếc thuyền.
C. Phierơ được cứu (câu
31).
1. Không bao lâu sau khi ông
bắt đầu "sụp xuống", Phierơ đã gào lên trong vô
vọng "Chúa ơi, xin cứu lấy tôi!" Chúa Jêsus "tức
thì giơ tay nắm lấy người". Phierơ không bao giờ rơi
vào mối nguy hiểm nào vì Chúa đã "nắm lấy người".
2. Chúa đã kéo Phierơ lại gần,
Ngài nhìn vào mắt ông rồi hỏi: "Hỡi người ít đức tin, sao ngươi
hồ nghi làm vậy?" Ngài phán y như thế cùng chúng ta hôm nay khi những
cơn bão nghi ngờ đang tan biến đi trong ánh sáng sự hiện diện của Ngài.
V. Bằng chứng về quyền phép của
Chúa Jêsus (các câu 32-33). Giăng 6.21 chép: "tức
thì chiếc thuyền đậu vào bờ, là nơi định đi”. Không nghi ngờ chi nữa về
thần tính của Ngài. Chúng ta cùng đọc Thi thiên 77.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét