MATHIƠ
- VUA CÁC VUA
Lòng thương xót của Nhà Vua
Mathiơ 9.8-26
1. Thương xót có nghĩa
gì? Theo tự điển Webster, thương xót được định nghĩa là: "ý thức
cảm thông nỗi đau của người khác kèm theo ước muốn làm vơi đi nỗi đau đó”. Cả hai từ
ngữ Hybálai và Hy lạp dịch là: "thương xót" có ý nói tới
"sự khao khát ở trong lòng". Như vậy, có lòng
thương xót là có lòng tan vỡ đối với ai đó hoặc việc gì đó.
2. Bạn có cảm thấy
thương xót đối với ai đó chưa?
A.
...những đứa trẻ đau ốm.
B.
...những đứa trẻ có cha mẹ dường như chẳng lo gì cho chúng.
C.
...người già cả, sức khoẻ yếu kém hay những người bị gia đình bỏ rơi.
D.
...người mắc bị nan y.
E.
...người đau khổ vì mất mát người thân.
F.
...công dân của thế giới thứ ba chậm phát triển thiếu ăn.
G.
...Cơ đốc nhân bị bắt bớ.
H.
...kẻ yếu thế cô... một người mẹ bị chồng bỏ rơi lao động với công việc mức
lương thấp và hy sinh sự sống mình lo cho con cái.
I.
Cá nhân tôi có một thương xót rất lớn đối với những người làm vợ của các vị
Truyền đạo, Mục sư, Giáo sĩ.
3. Bạn không thấy thương
xót đối với người nào?
A.
...những kẻ chuyên ức hiếp trong sân trường.
B.
...những công ty lớn, họ chỉ biết nhắm vào giới hạn lợi nhuận hơn là khách hàng
của họ.
C.
...hạng người khó thương: những kẻ hay kiêu căng, khó chịu & ích kỷ.
D.
...những tên tài xế chuyên lái ẩu trong thành phố.
4. Một trong những điểm
khác biệt lớn giữa Đức Chúa Trời và dân sự của Đức Chúa Trời: ấy là chúng ta
thể hiện ra lòng thương xót có chọn lựa. Đức Chúa Trời thì không phải vậy! Ngài
cảm thương đối với mọi người và thể hiện
ra tình yêu thương không điều kiện của Ngài và sự sống đời đời cho bất kỳ ai
bằng lòng tiếp nhận tình yêu ấy nhơn đức tin nơi Chúa Jêsus.
5. Trong phân đoạn nầy,
chúng ta sẽ học biết Chúa Jêsus có cùng một sự thương xót đối với mọi người. Từ
cấp lãnh đạo Do thái có chức có quyền, giàu có, cho tới người nghèo đều như
nhau. Chúng ta hãy tiếp thu ba lẽ thật nói về ơn thương xót của Cứu Chúa chúng
ta.
A.
Trong sự thương xót, Chúa Jêsus đã tiếp một quan cai nhà hội của người Do thái (câu
18).
1.
Khi câu 18 chép: "Đang khi Đức Chúa Jêsus phán các điều đó", câu nầy chỉ
ngược lại phần đối đáp giữa Ngài với các thầy thông giáo, người dòng Pharisi,
các môn đồ của Giăng Báptít trong mấy câu đi trước. Mấy kẻ nầy đang chỉ trích
Chúa Jêsus vì quyền tha tội của Ngài, vì Ngài đã trò chuyện và ăn uống với hàng
tội nhân và vì Ngài không dạy các môn đồ noi theo các truyền khẩu tôn giáo của
người Do thái do con người lập ra.
2.
Ở giữa cuộc đối đáp đó, "xảy có người cai nhà hội kia bước vào, quì
lạy trước mặt Ngài". Luca 8.41 cho chúng ta biết tên của người nầy
là "Giairu" và ông là "người cai nhà
hội". Chữ Hy lạp được dùng ở đây dường như có ý nói rằng ông là
đầu của quan cai nhà hội, nghĩa là ông có quyền chỉ huy công việc của các thầy
tế lễ khác, các thầy thông giáo và người dòng Pharisi.
3.
Vị quan cai cao cấp nầy đã đến và "quì lạy trước mặt
Ngài". Ông đã quì lạy trước mặt Chúa Jêsus và có lẽ đã hôn chơn
của Ngài nữa. Đây là dấu hiệu hạ mình và tôn kính lắm lắm.
4.
Hãy xem xét điều mỉa mai ở đây. Khi "người cai nhà
hội", người nầy đã ở trong sự chống báng đối với Chúa Jêsus.
Những tay bộ hạ của ông ta đã chỉ trích Chúa Jêsus một cách miệt mài, có lẽ họ
làm thế là do sự điều động của ông ta nữa là. Thật là hợp lý khi kết luận rằng
ông ta đã xem Chúa Jêsus là một kẻ thù đối với truyền thống của người Do thái.
Thế mà, ở đây, nơi bệ chơn của Ngài, ông ta đang quì lạy trong sự hạ mình.
5.
Người "cai" nói: "Con gái tôi
mới chết". Đây là một bé gái còn nhỏ. Mác cho chúng ta
biết rằng nó mới 12 tuổi. Hãy tưởng tượng xem tấm lòng tan nát của người cha
nầy. Một trong những phần hành khó khăn nhất của bậc làm cha làm mẹ là nhận
biết có một số việc mà chúng ta chẳng thể làm gì được cho con cái của mình.
6.
Có lẽ ông đã có mặt tại ngôi nhà khi người đau bại được tha thứ và được lành.
Có lẽ ông đã có mặt ở đó, khi Chúa Jêsus chữa lành cho tôi tớ của thầy đội
Lamã. Có thể ông đã nom thấy Chúa Jêsus đuổi quỉ. Dù ở cấp độ nào, ông ta đã
biết Chúa Jêsus là nguồn hy vọng duy nhất của mình, cho nên ông ta mới nói: "xin Chúa
đến, đặt tay trên nó, thì nó sẽ được sống”.
7.
Nhu cần của Giairu là chính ông ta phải đến với Chúa Jêsus. Ở điểm nầy, địa vị
cao trọng của ông không còn là vấn đề nữa rồi. Đẳng cấp tôn giáo của ông không
còn là vấn đề nữa. Mọi luật lệ theo luật pháp không còn là vấn đề nữa. Ông thấy
mình vô quyền, không làm sao thay đổi được hoàn cảnh. Chúa Jêsus là nguồn hy
vọng duy nhất của ông ta.
8.
Đức tin của Giairu cũng buộc ông phải đến với Chúa Jêsus. Mặc dù Chúa Jêsus đã
khiến cho ai đó sống lại từ kẻ chết, người “cai” nầy có đức
tin tin rằng Chúa Jêsus có thể làm được điều đó.
B.
Chúa Jêsus làm thoả mãn nhu cần của quan cai nhà hội người Do thái (câu 19).
1.
Tin lành rất đơn giản ở đây. Kinh thánh chép: "Đức Chúa Jêsus bèn
đứng dậy, cùng môn đồ Ngài đều đi theo người”.
2.
Hãy tưởng tượng các môn đồ đã nghĩ gì!?! "Sao Chúa Jêsus
lại đi giúp cho người nầy. Ông ta là kẻ thù mà! Ông ta là kẻ luôn luôn chỉ
trích chúng ta. Chúa Jêsus đâu có mắc nợ gì ông ta đâu".
3.
Vì Chúa Jêsus đã động lòng thương xót, người kia là ai thì chẳng thành vấn đề
đối với Ngài. Ông ta có nhu cầu và Ngài bằng lòng phu phỉ nhu cầu đó.
C.
Chúa Jêsus sẽ tiếp lấy bất kỳ ai chịu đến với sự hạ mình và với đức tin.
1.
Giăng 1.14 dạy chúng ta rằng "Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa
chúng ta". Ngài đã trở thành một người giữa vòng loài
người để Ngài có thể bày tỏ chính mình Ngài ra dễ gần gũi và dễ tiếp nhận. Toàn
bộ chương trình cứu chuộc đã được soạn sẵn trong cõi đời đời bởi Đức Chúa Trời rất dễ cho
con người tiếp nhận.
2.
Rôma 10.13 bảo đảm với chúng ta: "Vì AI kêu cầu danh
CHÚA thì sẽ được cứu”.
3.
Đức Chúa Trời không hề chối bỏ người nào, nhưng muốn tiếp nhận hết thảy mọi
người. II Phierơ 3.9 chép: "Chúa không chậm trễ về lời hứa của Ngài như
mấy người kia tưởng đâu, nhưng Ngài lấy lòng nhịn nhục đối với anh em, không
muốn cho một người nào chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn”.
4.
Chúa Jêsus đã phán trong Giăng 6.37: "Phàm những kẻ Cha
cho ta sẽ đến cùng ta, kẻ đến cùng ta THÌ TA KHÔNG BỎ RA NGOÀI ĐÂU”.
5.
Nầy bạn tôi ơi, có thể bạn đang sống xa cách Đức Chúa Trời. Có thể bạn tự xem
mình là kẻ thù của Đức Chúa Trời, nhưng Chúa Jêsus vẫn động lòng thương xót đối
với bạn đấy! Ngài sẽ tiếp nhận bạn nếu bạn chịu đến với Ngài trong sự hạ mình
và đức tin.
D.
Giống như Chúa Jêsus, dân sự của Đức Chúa Trời cần phải tiếp đón hết thảy những
ai chịu đến.
1.
Còn Hội thánh, chúng ta cần phải gạt qua một bên mọi thành kiến của con người
chúng ta, các thành kiến đó đều có gốc rễ trong hố sâu địa ngục. Chúng ta cần
phải gạt qua một bên sự kiêu ngạo cùng các thái độ trịch thượng của mình mà
tiếp nhận hết thảy mọi người cách bình đẳng. Chúng ta không thể giống với Chúa Jêsus
được cho tới chừng nào chúng ta tiếp nhận người ta theo cách Chúa Jêsus tiếp
nhận họ.
2.
Có thể bạn nói: "Nhưng thưa Mục sư, chúng ta đang làm như
thế đây. Mọi người đều được tiếp đón trong Hội thánh nầy!" Bạn nói đúng
đó! Tôi rất tự hào vì dân sự của chúng tôi luôn có tư thế tiếp đón mọi người.
Nhiều lần các vị khách của chúng tôi nói cho tôi biết quí vị mến khách như thế
nào và tình cảm mà họ nhận được ở đây.
3.
Tôi muốn đề nghị một việc còn sâu sắc hơn là làm cho người ta cảm thấy họ luôn
được tiếp đón trong Hội thánh nầy. Muốn được tiếp đón giống như Chúa Jêsus,
chúng ta cần phải ra khỏi các bức tường của nhà thờ. Chúng ta phải cầu xin Đức
Chúa Trời ban cho chúng ta tấm lòng biết thương xót đối với mọi người, thậm chí
với hạng người mà chúng ta không ưa thích kia. Hạng người mà chúng ta thường
không ưa thích là hạng người đang cần đến Chúa Jêsus nhiều nhất.
4.
Chúng ta cần phải bày tỏ ra sự tiếp đón có tính thương xót bất cứ đâu: trong
nơi lân cận, nơi sở làm, trường học, v.v...
II. CHÚA JÊSUS CÓ THỂ RỜ ĐỤNG ĐƯỢC VÌ ƠN THƯƠNG XÓT CỦA NGÀI (các câu 20-22).
A.
Hành động của người đờn bà bị bịnh mất huyết (câu 20).
1.
Khi Chúa Jêsus bước theo Giairu hầu thực thi sứ mệnh thương xót của Ngài, có
một việc lạ lùng đã xảy ra. Thực ra, đây là một phép lạ trong một phép lạ.
2.
Phép lạ nầy xảy ra một cách mau chóng. Kinh thánh chép phép lạ nầy diễn ra "liền
trong giờ đó”.
3.
Người đờn bà mắc một chứng bịnh được mô tả ở đây là "mất
huyết" lại gần sau lưng mà “rờ trôn áo Ngài”.
B.
Tình trạng của người đờn bà nầy (câu 20).
1.
Chứng bịnh nầy được gọi là "mất huyết" ở đây và “rong kinh” trong một bản
dịch Kinh thánh Anh ngữ, được dịch từ cùng một chữ Hy lạp, từ đó chúng ta có
chữ "hemorrhage" (xuất huyết) có ý nói tới
chứng rong kinh.
2.
Có lẽ nan đề của bà ta bắt nguồn từ một khối u hay một chứng bịnh khác của tử
cung. Bất luận là lý do nào, nó làm cho bà ta bị ô uế về mặt nghi thức dưới
luật pháp Cựu ước. Hãy xem Lêvi ký 15.25-27.
3.
Vì cớ bà ta bị ô uế, bà ta không nên có một sự rờ đụng nào với bất cứ ai. Bà ta
không được bước vào nhà hội hay đền thờ. Nỗi xấu hổ về sự ô uế của chứng bịnh
nầy chỉ đứng hàng thứ hai đối với nỗi xấu hỗ của bịnh phung mà thôi.
4.
Bà ta đã chịu khổ từ chứng “mất huyết nầy đã mười hai năm”. Mác 5.26
chép: bà ta "bấy lâu chịu khổ sở trong tay nhiều thầy thuốc, hao tốn
hết tiền của, mà không thấy đỡ gì; bịnh lại càng nặng thêm”. Bà ta đã đi
hết thầy nầy đến thầy khác, hao tốn tiền của cho tới chừng bà ta lâm vào cảnh
nghèo khó. Thể xác không thấy đỡ gì, bịnh lại càng nặng thêm.
C.
Đức tin của người đờn bà (các câu 20-21).
1.
Trong lý trí của người đờn bà lâm cảnh tuyệt vọng nầy một tia sáng vừa len qua
cuối đường hầm. Một tia hy vọng xuyên qua bóng tối tăm đau khổ của bà ta. Mọi
người ở xung quanh bà ta đều nói tới Jêsus nầy, Ngài phán dạy với quyền phép
như thế nào, thể nào Ngài đã chữa lành đủ thứ tật bịnh kể cả bịnh phung. Có
người nói Ngài là Đấng Mêsi.
2.
Trong lý trí của bà ta một kế hoạch mới vừa ló dạng. Nếu Chúa Jêsus thực sự là
Đấng Mêsi, nếu Ngài thực sự có quyền phép chữa lành như thế thì mọi sự bà ta
cần phải lo làm là “rờ” đến trôn áo Ngài. Ngài
sẽ không nhận biết được đâu! Bà ta có thể đến gần Ngài và chỉ "rờ đến
trôn áo Ngài". Bà ta
không dám làm ô uế Ngài do cái chạm đến thân thể Ngài.
3.
Hãy lưu ý các tư tưởng của bà ta trong câu 21: "Nếu ta chỉ rờ áo
Ngài, thì cũng sẽ được lành”. Ngôn từ Hy lạp dịch sát nghĩa là: "Bà ta
nhũ lòng". Bà ta đã lặp đi lặp lại nhiều lần trong trí suy
nghĩ đơn sơ đó.
4.
Mác 5.24 chép rằng khi Chúa Jêsus đi theo Giairu: "đoàn dân
đông cùng đi theo và lấn ép Ngài". Dân chúng ở khắp mọi
nơi. Không cứ cách nào đó, bà ta đã đến gần đủ để rờ “trôn áo” Ngài.
5.
Bà ta không muốn cho người khác trông thấy. Bà ta tin Chúa Jêsus có quyền phép
đến nỗi bà ta sẽ được lành mà chẳng phải làm phiền Ngài. Vì vậy bà ta đã thực
thi kế hoạch của mình một cách trọn vẹn.
D.
Phản ứng của Chúa Jêsus (câu 22).
1.
Có hai việc xảy ra cùng một lúc: Bà ta được chữa lành và Chúa Jêsus nhận biết
bà ta.
2.
Thứ nhứt, bà ta được chữa lành. Câu 22 chép: "Liền trong giờ đó,
người đờn bà lành bịnh". Mác
5.29 chép: "Cùng một lúc ấy, huyết lậu liền cầm lại;
người nghe trong mình đã được lành bịnh". Luca 8.44 chép: "tức thì huyết cầm
lại”.
3.
Thứ hai, Chúa Jêsus nhận biết bà ta. Luca 8 cung ứng một cái nhìn rất tức cười
vào bối cảnh nầy. Chúa Jêsus đã hỏi các môn đồ: "Ai sờ đến ta?" Phierơ đáp: "Thầy
thấy đám đông lấn ép thầy, thầy còn hỏi rằng: Ai rờ đến ta?" Khi ấy Chúa Jêsus
phán: "Có người đã rờ đến ta, vì ta nhận biết có
quyền phép từ ta mà ra".
4.
Hãy lưu ý ở đây, câu 22, Chúa Jêsus gọi bà ta là “con gái”. Đây là cách
gọi rất tình cảm và thân thương. Đức tin của bà ta nơi Chúa Jêsus đã đem lại
cho bà ta còn hơn cả được chữa lành nữa, đức tin ấy đã đem lại sự cứu rỗi cho
bà ta, một mối tương giao yêu thương với Chúa hằng sống!
5.
Ngài phán: "đức tin con đã làm cho con được lành". Bà ta đã
được lành rồi, cả thuộc thể và thuộc linh vì bà ta đã bởi đức tin rờ đến Chúa Jêsus.
1.
Nhiều người đã đến gần Chúa Jêsus, nhưng chỉ có một vài người đến gần và rờ tới
Ngài. Mỗi Chúa nhật, người ta đi nhà thờ và đến gần Chúa Jêsus nhưng họ không
rờ đụng Ngài. Mỗi ngày người ta đọc Kinh thánh và lắng nghe phát thanh Cơ đốc
hay nghe một người bạn làm chứng rồi đến gần Chúa Jêsus song lại chẳng rờ đụng
Ngài.
2.
Nếu có một ngàn bước giữa bạn và Chúa Jêsus, Ngài sẽ thực hiện 999 bước. Ngài
sẽ đến gần bạn, nhưng bạn phải thực hiện bước sau cùng, bạn phải bước tới và rờ
đụng Ngài.
3.
Có nhiều người ở đây hôm nay đã đến gần Chúa Jêsus, nhưng họ phải bước tới và
rờ đụng Ngài. Bạn còn chờ cái gì nữa chứ?
III. CHÚA JÊSUS BÀY TỎ RA QUYỀN PHÉP VÌ ƠN THƯƠNG XÓT CỦA NGÀI
(các câu 23-26).
A.
Ở đám tang, cơn đau đầu và hỗn độn đang ngự trị (câu 23).
1.
Đức tin của người đờn bà bịnh hoạn kia đã khích lệ Giairu, người “cai” , là dường
nào. Tôi dám chắc ông ta đã vịn lấy cánh tay Chúa Jêsus rồi hối thúc Ngài len
qua đám đông đi tới nhà của ông ta.
2.
Ngày nay, các đám tang của người Mỹ thường buồn rười rượi và có vẻ cung kính.
Ai nấy thầm thì cách yên tỉnh khi họ nói chuyện với nhau. Trong thời buổi ấy
tại xứ Palestine ,
các đám tang thì ồn ào, và “om sòm”.
3.
Câu 23 chép có bọn “thổi sáo” nữa. Bọn nầy được các
gia đình Do thái thuê để thổi cho lớn tiếng, thứ nhạc gây bối rối để cho khán
thính giả phải suy gẫm về nỗi đau và sự bối rối mà gia đình người chết cảm nhận được.
4.
Cũng có “những kẻ khóc mướn” ở đó nữa. Tôi có nghe
thấy tiếng kêu gào tận đáy lòng của người mẹ được tin con gái mình đã chết. Còn
đây là chuyện khác nữa. Những kẻ khóc mướn chuyên nghiệp thường được các gia
đình giàu có thuê để “khóc lóc” lớn tiếng. Đám tang mà
có tiếng khóc lớn tiếng thì người chết càng được yêu quí hơn, theo truyền thống
thì là như vậy.
B.
Trong nhà của người cai nhà hội, nghi ngờ và sự nhạo báng được tỏ ra (câu
24).
1.
Khi Giairu, Chúa Jêsus cùng các môn đồ tới gần bọn "làm om
sòm” nầy, Chúa Jêsus phán: "Sao các
ngươi làm ồn ào và khóc lóc vậy? Đứa trẻ chẳng phải chết, song nó ngủ”.
2.
Bạn có thể hình dung ra bạn bè và người thân cảm nhận như thế nào không? Bạn có
thể hình dung những kẻ khóc mướn nghĩ gì không? Điều nầy tương đương với việc
vào một ngôi nhà có tang chế rồi nói với gia đình ấy ngày nay: "Đừng sợ,
cha của anh chỉ ngủ mà thôi”.
3.
Khi Laxarơ chết, Chúa Jêsus đã dặn gia đình: "Laxarơ, bạn ta, đương ngủ; nhưng ta đi đánh thức người" (Giăng 11.11). Chúa Jêsus
đã phán về sự chết như đang ngủ chỉ ra cái chết là một trạng thái tạm thời mà
thôi.
4.
Kinh thánh chép: "Chúng nghe thì chê cười Ngài". Sát nghĩa
câu nầy đọc là: "nhạo báng, chế giễu, cười, khinh mạn". Tôi dám chắc
rằng họ đã nói đại loại như thế nầy: "Đúng, Ngài có thể
chữa lành đủ thứ tật bịnh, khiến kẻ đui thấy được, kẻ què đi được, nhưng đứa
gái nầy đã chết, C-H-Ế-T, CHẾT RỒI! Không có ai làm cho kẻ chết sống lại được
đâu!"
5.
Có nhiều người chế nhạo quyền phép của Đức Chúa Trời ngày hôm nay. Quyền phép
đáng kinh sợ của Ngài một ngày kia sẽ tỏ ra số phận của họ!
C.
Trong căn phòng của đứa gái, quyền phép và uy quyền đã được tỏ ra (câu 25).
1.
Chúa Jêsus truyền rằng bọn làm om sòm kia phải "lui ra". Đem theo bố
mẹ đứa gái, cùng với Giacơ, Giăng và Phierơ, Chúa Jêsus bước vào căn phòng nơi
thi thể của nó đang nằm đó.
2.
Tôi hình dung ra bối cảnh thật dịu dàng ở đây. Chúa Jêsus "cầm lấy
tay đứa gái" y như tôi cầm lấy tay con gái của tôi lúc tôi
nhẹ nhàng đánh thức nó.
3.
Ngài phán trong Mác 5.40: "Talitha, cumi" nghĩa là "Chiên
con nhỏ ơi, hãy chờ dậy!"
4.
"Thì nó liền chờ dậy". Hãy tưởng tượng ra bối
cảnh lúc Ngài trao nó cho bố mẹ nó! Hãy tưởng tượng những kẻ khóc mướn kia, là
những người đã chế nhạo Chúa Jêsus khi đứa gái nhỏ đó chẳng còn động đậy chi
nữa ở trên giường!
D.
Khắp cả xứ, người ta đã chia sẻ cho nhau nỗi kinh ngạc và sự lạ lùng ấy (câu
26).
1.
Mathiơ nói thêm vào: "Tin nầy đồn ra khắp cả xứ đó”. Lâu nay
chẳng có một tin gì mới mẻ giống như tin nầy kể từ khi Êli làm cho con trai của
người đờn bà goá sống lại!
2.
Chúa Jêsus đã minh chứng, không những ơn thương xót của Ngài có cả cho người
cai nhà hội nhiều quyền thế kia và người đờn bà bị bịnh mất huyết nọ, mà quyền
phép Đấng Mêsi của Ngài cũng có cho kẻ chết nữa!
E.
Chúa Jêsus vẫn còn làm cho kẻ chết sống lại ngày hôm nay!
1.
Giăng 11.25: "Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta là sự sống lại và sự sống;
kẻ nào tin ta thì sẽ sống, mặc dầu đã chết rồi”.
2.
Mỗi người được sanh ra trong thế gian nầy đều chết về mặt thuộc linh. Chúa Jêsus
bởi ơn thương xót của Ngài làm cho kẻ chết về mặt thuộc linh được sống lại về
mặt thuộc linh!
3.
Ngài có thể ban cho bạn sự sống ngay hôm nay!
PHẦN KẾT LUẬN: Bạn có bao
giờ để ý tới Jêsus nầy chưa? Ngài chưa hề dự một đám tang trọn vẹn nào hết!
Ngài làm cho mỗi đám tang mà Ngài đến dự bị hư hỏng đi. Ngài có thể nắm lấy
tang lễ của bạn rồi biến nó thành một sự hồi cư đầy vui mừng nếu bạn chịu đến
với Ngài bằng sự hạ mình và đức tin!
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét