MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Đời
sống của một môn đồ
Mathiơ 10:16-23
1. Đâu là khác biệt giữa
tín đồ và môn đồ?
A. Tín đồ là người đã được cứu hay đã được sanh lại. Người nầy có thể đến
nhóm hay không nhóm đều đặn với Hội thánh. Có thể người nghiên cứu hay không
nghiên cứu Kinh thánh, cầu nguyện, dâng phần mười và các thứ của dâng... Chúa
Jêsus là một phần trong đời sống của người nầy. Hầu hết trong quí vị đều là tín
đồ rồi.
B. Môn đồ là người đầu phục trọn vẹn vâng theo Chúa Jêsus trong từng chi
tiết của đời sống mình. Chúa Jêsus không phải là một phần trong đời sống của người,
Chúa Jêsus là sự sống của người. "Môn đồ" có nghĩa là "người học
việc". Theo Tân ước, môn đồ từ bỏ mọi sự để bước theo thầy của mình. Một số
trong quí vị là môn đồ.
C. Tôi muốn quí vị nên dừng lại một phút rồi hãy hỏi Đức Chúa Trời câu nầy:
"Con
là tín đồ hay con là môn đồ?" Tôi tin Đức Thánh Linh sẽ tỏ
ra câu trả lời cho quí vị ngay.
2. Mathiơ 10 đang nói về
Chúa Jêsus đang ủy thác cho các môn đồ đầu tiên của Ngài ra đi và phục vụ cho
Ngài. Ngài đã ban cho họ nhiều nguyên tắc vẫn còn áp dụng cho chúng ta ngày nay.
3. Mathiơ 10 là một lời
tiên tri thu gọn. Ở đó có cả sự ứng nghiệm ngay tức thì và trong tương lai. Nói
cách khác, phân đoạn nầy không những phác hoạ ra công cuộc truyền giáo ngắn hạn
của các môn đồ trong xứ Galilê, mà còn phác hoạ ra chức vụ trọn vẹn của họ nữa,
kể cả những người sẽ trở thành môn đồ của Ngài ao ước sau khi chết thậm chí
trong biến cố Cơn Đại Nạn trong tương lai. Phân đoạn Kinh thánh nầy không miễn
trừ nhận định nầy.
4. Từ những câu nầy, chúng
ta hãy xét qua phần ví sánh về các môn đồ, thái độ của các môn đồ, sự bắt bớ, sự
tiếp trợ, sự thù ghét và phản ứng của các môn đồ.
A. Chúa Jêsus so sánh tín đồ với "Chiên".
1. Hãy lưu ý rằng Chúa Jêsus bắt đầu phần sứ điệp nầy của Ngài với từ ngữ:
"Kìa". Thực ra, Ngài
đang phán: "Hãy tỉnh thức! Hãy nghe đây! Hãy chú ý tới những điều ta sắp phán
ra đây".
2. Chúa Jêsus phán: "Ta sai các ngươi đi khác nào như chiên vào giữa
bầy muông sói". Từ những gì chúng ta đọc thấy trong 9.36, chúng ta nên
nghĩ Ngài đang phán: "Ta sai các ngươi đi ra giống như những người
chăn giữa bầy chiên vậy".
3. Về thuộc thể, tôi không thể hiểu nổi Chúa Jêsus đang nói tới chúng ta
như "chiên" được. Chiên
là loài vật ngu dốt. Chiên ăn bất cứ loại rau cỏ nào, thậm chí loài thực vật độc
nữa, vì thế chúng cần phải được chăn giữ. Chúng có thể bị hại đến chỗ cùng cực
trong thời tiết, dễ bị nhiểm trùng và tật bịnh. Bầy muỗi bay vo ve quanh đầu của
chúng, chích đau chúng và đôi khi chúng cụng đầu vào cây cối hay vầng đá cho tới
khi chúng chết đi nữa. Chúng sẽ bỏ chạy tán loạn khi mường tượng ra nguy hiểm rồi
đâm đầu xuống dốc núi và cứ bỏ chạy cho tới chừng nào chúng kiệt sức mà chết
thì thôi. Mục tiêu là: Chiên cần sự quan phòng thường xuyên.
4. Mặc dù chúng ta không thích lối ví sánh như thế, trong mối quan hệ của
chúng ta với Chúa, sự so sánh về "chiên" là cực kỳ
chính xác. Trong nhiều phương thức, chúng ta rất dại dột về mặt thuộc linh.
Chúng ta trưởng dưỡng lý trí mình với những độc tố. Chúng ta hoang mang, hốt hoảng
không cần thiết. Chúng ta tự bỏ chạy cách điên khùng cho tới chừng chúng ta kiệt
quệ. Chúng ta ngoan cố hướng đầu mình đối nghịch với những nan đề thay vì trao
phó chúng cho Chúa. Chúng ta là bầy chiên với một Đấng Chăn Hiền Lành
và chúng ta phải học biết nương cậy vào sự quan phòng thường trực của Ngài.
B. Chúa Jêsus so sánh người chưa tin Chúa với "muông
sói".
1. Trong xứ Palestine ,
cũng như trong nhiều nơi trên thế giới, những chỗ chiên sống thành từng bầy, "muông
sói" chủ yếu là những con dã thú. Sống thành bầy đàn, chúng tấn công bầy
chiên hãm bắt chúng rồi xé nát ra thành từng mãnh. Có khi chúng tấn công bầy
chiên đang khi chúng còn ở trong ràng nữa. Nguồn bảo hộ duy nhất của bầy chiên
là người chăn cùng cây trượng của người.
2. Khi muông sói tấn công bầy chiên, giống như những người vô tín thường
tấn công nhiều người chúng ta trong bầy của Chúa Jêsus. Vào các thời điểm nầy, Đấng
Chăn Hiền Lành của chúng ta là nguồn trông cậy duy nhất của chúng ta mà thôi.
C. Chúa Jêsus truyền cho "Chiên" của Ngài phải đi
ra giữa bầy “muông sói”.
1. Hãy lưu ý, Chúa Jêsus phán: "Ta sai các ngươi đi...". Ngài cố ý đặt
bầy chiên của mình vào "giữa bầy muông sói". Ngài sai bầy
chiên của Ngài vào lãnh thổ của bầy sói dữ.
2. Khi chúng ta đi ra trong vai trò môn đồ của Đấng Christ để phục vụ
trong thế giới của bầy sói nầy, chúng ta sẽ bị chúng tấn công.
a. Trong Công vụ các sứ đồ 20.29, Phaolô nói: "Còn tôi biết
rằng sau khi tôi đi sẽ có muông sói dữ tợn xen vào trong vòng anh em, chẳng tiếc
bầy đâu".
b. Trong Roma 8.36, Phaolô nói theo quan điểm của thế gian: "Họ coi
chúng tôi như chiên định đem đến hàng làm thịt”.
c. Chúa Jêsus đã cảnh cáo trong Mathiơ 7.15: "Hãy coi chừng
tiên tri giả, là những kẻ mang lốt chiên đến cùng các ngươi, song bề trong thật
là muông sói hay cắn xé".
3. Tại sao vậy? Nếu Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta, tại sao Ngài lại
sai phái chúng ta vào trong một nơi mà chúng ta có thể tổn hại chứ? Câu trả lời:
sở dĩ như vậy là vì đấy là chỗ chúng ta có thể hầu việc Ngài hết mức. Chúa
Jêsus muốn chúng ta phải nhìn biết con đường dành cho chức vụ môn đồ là con đường
khó nhọc và lắm hiểm nguy. Winston Churchill đã nói với đồng bào của mình rằng:
"Mọi
sự tôi có thể hiến cho đồng bào là máu, mồ hôi và nước mắt của tôi".
4. Có một chủ nghĩa MÔN ĐỒ DỄ DÀNG trong Cơ đốc giáo ngày
nay. Lộ trình đến với tình trạng giống như ảnh tượng của Đấng Christ là lộ
trình gian khổ, nhưng phần thưởng thì lại rất lớn.
5. II Timôthê 3.12 chép: "Vả lại, hết thảy mọi người muốn sống
cách nhân đức trong Đức Chúa Jêsus Christ, thì sẽ bị bắt bớ". Tuy nhiên, sự
bắt bớ có thể không là tiêu chuẩn trong đời sống chúng ta, nếu chúng ta phục
theo chức năng môn đồ, thì sự bắt bớ ấy sẽ đến ngay.
II. THÁI ĐỘ CỦA
CÁC MÔN ĐỒ (câu
16b).
A. Chúng ta cần phải sống "khôn khéo như rắn".
1. Theo truyền khẩu Trung Đông, cũng như trong nhiều truyền thuyết xưa,
con "rắn" bị coi là giống khôn khéo và xảo quyệt nhất trong
mọi loại thọ tạo. Cho nên chẳng có gì phải ngạc nhiên khi Satan nói với Êva qua
thân thể của một con rắn.
2. Chúa Jêsus phán rằng chúng ta cần phải "khôn khéo như rắn". "Khôn
khéo" ra từ chữ phronimos (fron'-ee-mos) có nghĩa là "suy xét cẩn
thận, quyết định khôn ngoan, hay kín đáo, nghĩa là thực khôn khéo". Chữ nầy có nghĩa
là rất xảo quyệt, láu cá, và linh lợi.
3. Nguyên tắc ở đây: ấy là chúng ta cần phải có thái độ của sự khôn
ngoan. Chúng ta cần phải biết nói ra đúng sự việc đúng thời điểm và đúng cách.
Chúng ta cần phải tế nhị, biết xử thế, và suy xét đúng đắn. Chúng ta đừng bao
giờ tỏ ra khắc nghiệt, hung hăng, hay khinh suất một cách không cần thiết.
4. Côlôse 4.5 chép: "Hãy lấy sự khôn ngoan ăn ở với những người
ngoại, và lợi dụng thì giờ".
5. Khi Chúa Jêsus bị cấp lãnh đạo tôn giáo trong thời ấy công kích, Ngài
đã ăn nói trong sự khôn ngoan và dè dặt, đừng bao giờ rơi vào cảnh giận dữ mất
kềm chế.
6. Cho phép tôi cung ứng cho quí vị một số hình ảnh về các Cơ đốc nhân bảo
thủ theo quan điểm của thế gian, không đi nhà thờ và chưa được cứu:
a. Những người đang gào thét ở bên ngoài các bịnh viện chuyên về nạo
thai.
b. Những kẻ giả mạo và hạng lang băm với lớp mỹ phẩm xảo quyệt tô điểm gương
mặt của họ.
c. Những vị Mục sư và giáo sĩ chuyên thăm viếng gái mãi dâm và bay trên loại phản lực gợi dục chứ không chìa những
tấm ngân phiếu an sinh xã hội giúp đỡ cho những bà lão già yếu.
7. Nếu chúng ta có thể tiếp cận với người chưa được cứu và người không đi
nhà thờ, chúng ta phải khôn khéo đủ để trình bày cho họ thấy một hình ảnh khác
biệt. Chúng ta phải biết cách yêu thương họ để đưa họ đến với Nước Trời.
B. Chúng ta phải "đơn sơ như chim bồ câu".
1. "Bồ câu" luôn luôn là biểu tượng cho sự thanh sạch. "Đơn
sơ" có nghĩa là "vô tội".
2. Thậm chí dù chúng ta hành động trong phương thức xảo quyệt tinh vi
lúc chìa tay ra, chúng ta cũng phải giữ lòng thanh sạch. Chúng ta đừng thêm hay
bớt gì nơi sứ điệp tin lành. Có nhiều nhà thờ đã làm như thế.
3. Chúng ta không cần phải khắc nghiệt quá khi đưa người ta đến với Đấng
Christ, nhưng chúng ta cần phải thanh sạch (I Côrinhtô 9.19-22).
4. Chúng ta cần sự thanh sạch nơi cách xử sự của chúng ta ở trước mặt thế
gian. Hêbơrơ 7.26 truyền cho chúng ta phải sống giống như Chúa Jêsus "Thầy Tế Lễ
Thượng Phẩm”, Ngài kà:...thánh, vô hại, không ô uế, phân rẽ với hạng tội
nhân...". Quí vị không thể làm chứng cho Nước Trời trừ phi quí vị chịu sống theo
một cung cách sống chân thực.
C. Chúng ta đang nhìn thấy tấm gương về thái độ trong đời sống của
Phaolô (Công
vụ các sứ đồ 23.1-5).
III. SỰ BẮT BỚ
CỦA CÁC MÔN ĐỒ (các
câu 17-18).
A. Một lời cảnh báo về sự bắt bớ (câu 17a).
1. Chúa Jêsus cảnh cáo chúng ta phải "coi chừng
người ta". "Coi chừng" có nghĩa là phải
cẩn thận, phải dè chừng, sẵn sàng, quan sát, không cả tin.
2. Mặc dù Kinh thánh dạy chúng ta phải "coi chừng người ta", kẻ thù thực sự
của chúng ta là Satan cùng các thế lực tối tăm của hắn. Êphêsô 6.12 chép: "Vì chúng
ta đánh trận, chẳng phải cùng thịt và huyết, bèn là cùng chủ quyền, cùng thế lực,
cùng vua chúa của thế gian mờ tối nầy, cùng các thần dữ ở các miền trên trời vậy".
3. Hạng người mà chúng ta phải “coi chừng” là hạng người
biết hay không biết mình chỉ là quân “chốt thí” của Satan mà
thôi.
B. Sự bắt bớ sẽ đến từ phía Tôn giáo (câu 17b).
1. Chúa Jêsus bảo các môn đồ Ngài rằng họ sẽ bị nộp trước "toà
án" và sẽ bị "đánh đòn” trong “nhà hội".
2. Trong từng ngôi làng Do thái đã có một ngôi nhà dành cho sự thờ phượng,
một nhà hội. Những toà nhà nầy được dùng làm nơi nhóm lại của toà án. Người ta đem
đặt bị cáo trước toà của cấp lãnh đạo tôn giáo, họ đưa ra bản nghị án, giảm án,
và phán quyết về hình phạt.
3. Thường thì hình phạt là "đánh đòn", 39 roi cộng với
một roi như đã được mô tả ở Phục truyền luật lệ ký 25.3. Thay vì dâng hiến 40,
họ đã dâng 39 để tỏ ra sự tử tế. Một vị quan án sẽ quất roi đang khi người khác
sẽ đếm.
4. Saulơ người Tạtsơ, đã trở thành sứ đồ Phaolô, ông đã được mời tới dự
trong những lần ra đòn và đánh đập như thế. Ông đã nói trong Công vụ các sứ đồ
22.19, "Tôi thưa rằng: Lạy Chúa, chính họ biết tôi từng bỏ tù những người
tin Chúa và đánh đòn trong các nhà hội nữa". Về sau chính
mình ông lại bị đánh đòn. Ông đã nói trong II Côrinhtô 11.24: "năm lần bị
người Giu-đa đánh roi, mỗi lần thiếu một roi đầy bốn chục".
5. Kinh thánh và lịch sử dạy cho chúng ta biết rằng hầu hết các môn đồ đầu
tiên đều đã đối diện với những lần đánh đòn như vậy và đã tuận đạo trong khi
rao giảng Tin lành.
6. Kể từ thời của Đấng Christ, tôn giáo là kẻ bắt bớ thường xuyên của những
tín đồ thật.
a. Chính mình Chúa Jêsus đã bị hạng người tôn giáo đánh đòn và đem đóng đinh
trên thập tự giá.
b. Hội thánh đầu tiên đã đối diện với sự bắt bớ lớn lao nhất từ các cấp
lãnh đạo tôn giáo người Do thái.
c. Trong những kỷ nguyên tăm tối, các môn đồ thực đã bị Hội thánh Rôma
trục xuất và bắt bớ.
d. Những vị anh hùng đức tin đã phó mạng sống của họ trong kỳ Cải Chánh
Tin Lành để đưa Kinh thánh và Cơ đốc giáo đến với nhiều đoàn dân đông.
e. Lịch sử Hội thánh chứa nhiều thi thể của những người tuận đạo, họ đã
chết trong tay của hạng người tôn giáo.
C. Sự bắt bớ sẽ đến từ phía nhà cầm quyền (câu 18).
1. Chúa Jêsus đã phán họ sẽ bị "giải đến trước mặt
các quan tổng đốc và các vua". Họ đã đối mặt với những người
như Philát, Phêlít, và Phêtu, “các quan tổng đốc" người La mã. Họ
đã đứng trước mặt "các vua" như At-ríp-ba, Hêrốt
Antipa và nhiều người khác nữa.
2. Hãy chú ý cách cẩn thận là Chúa Jêsus đã phán họ sẽ bị giải đi "vì cớ
Ta". Người thế gian thù ghét Đấng Christ rồi ví cớ đó, họ thù ghét mỗi một
tín đồ thực của Đấng Christ.
3. Chúng ta càng trở nên giống với Chúa Jêsus, chúng ta sẽ càng bị người
thế gian miệt khinh. Cơ đốc nhân xác thịt, theo đời nầy chẳng có chút gì sợ hãi
đối với người thế gian. Tuy nhiên, khi chúng ta bước theo Chúa Jêsus và trở
thành hạng môn đồ chân chính, chúng ta sẽ đối mặt với sự bắt bớ. Hãy lưu ý lời
lẽ của Chúa Jêsus trong Giăng 15.18-21.
4. Tuần lễ nầy tôi có đọc thấy trong nhiều quốc gia như Trung hoa, đã có
thêm nhiều sự bắt bớ Cơ đốc nhân trong 30 năm trở lại đây hơn các phần còn lại của
lịch sử. Sự bắt bớ ấy có thể xảy đến tại xứ sở nầy. Ngày nay, về mặt chính trị
khi bắt bớ bất kỳ nhóm nào ngoại trừ Cơ đốc nhân đều là không đúng. Ngày nay Đấng
Christ đã bị dời đi ra khỏi trường học và chỗ công cộng, ngày mai họ tìm cách đời
Ngài ra khỏi nhà thờ và gia đình. Đây là những dấu hiệu nói tới thời điểm...
Thomas J. Watson đã viết: "Nếu quí vị trổi dậy
và bị đếm số (như võ sĩ quyền anh), từng hồi từng lúc quí vị sẽ thấy mình bị đánh
gục, nhưng hãy nhớ: một người bị những thứ luật lệ định sẵn làm cho bẽ mặt cứ cương
quyết vì cớ điều lành".
IV. SỰ TIẾP TRỢ
CHO CÁC MÔN ĐỒ (các
câu 19-20).
A. Nếu và khi chúng ta bị giải đến trước các bậc cầm quyền, chúng ta
không nên "lo" chi hết! Chúng ta không phải lo về "cách nói
làm sao". Nói cách khác: "Đừng lo về điều các
ngươi sẽ nói". Chúng ta không nên tìm cách thuyết phục người
khác về tình trạng vô tội của chính chúng ta.
B. Chúa Jêsus nói cho chúng ta biết rằng "vì những lời đáng nói
sẽ chỉ cho các ngươi chính trong giờ đó". Câu 20 tiếp tục nói rằng: "Thánh Linh
của Cha các ngươi [của chúng ta]" sẽ từ trong lòng các ngươi
nói ra qua chúng ta.
C. Khi Phierơ và Giăng bị những kẻ bắt bớ người Do
thái ra lịnh không được nói tới Chúa Jêsus nữa, họ đã nói: "Nhưng Phierơ
và Giăng trả lời rằng: Chính các ông hãy suy xét, trước mặt Đức Chúa Trời có
nên vâng lời các ông hơn là vâng lời Đức Chúa Trời chăng? Vì, về phần chúng
tôi, không có thể chẳng nói về những điều mình đã thấy và nghe"
(Công vụ các sứ đồ 4.19-20).
D. Một số bằng chứng quan trọng nhất ra từ môi miệng của những người tuận
đạo trước khi họ chết. (sứ điệp của Êtiên trong Công vụ các sứ đồ
7.51-60).
V. THÁI ĐỘ THÙ
GHÉT CÁC MÔN ĐỒ (các
câu 20-21).
A. Thù ghét có thể đến từ phía gia đình (câu 21).
1. Chúa Jêsus phác hoạ ra một thời kỳ khi các thành viên trong gia đình,
"anh...", "cha" và "con
cái..." sẽ "nộp... [các thành viên trong gia đình] cho đến chết".
2. Hãy chú ý lời lẽ của Chúa Jêsus trong các câu 34-36.
3. Trong các sự bắt bớ của người La mã và thế kỷ thứ hai và thứ ba, vô số
thuộc viên Cơ đốc nhân đã bị giao cho nhà cầm quyền say máu giết người.
4. Ngày nay ở Trung hoa, ở đó Cơ đốc giáo dưới lòng đất đang được rao giảng
rất nhanh chóng, nhiều người bị thành viên trong gia đình họ đem nộp cho nhà cầm
quyền.
5. Năm ngoái tôi đến giảng cho hai gia đình Cơ đốc. Họ đến làm việc tại quốc gia theo Hồi
giáo là Saudi Arabia .
Họ phải rất cẩn trọng về ai đang hiện diện khi họ nghiên cứu Kinh thánh.
B. Thù ghét đến từ phía xã hội (câu 22).
1. Khi Chúa Jêsus phán chúng ta sẽ bị "thiên hạ ghen
ghét". Ngài không có ý nói tới từng người chưa tin Chúa, mà nói tới người chưa
tin Chúa, nói chung.
2. Chúa Jêsus phán chúng ta sẽ bị thù ghét "vì cớ danh
ta". Thế giới vô tín sẽ không khinh dễ quí vị vì màu da, văn hoá, hay khả năng
tài chính của quí vị. Tuy nhiên, họ sẽ nhạo báng quí vị vì cớ đức tin quí vị đặt
nơi Chúa Jêsus.
3. Phaolô đã nói trong I Côrinhtô 4.9: "Vì chưng Đức Chúa Trời
dường đã phơi chúng tôi là các sứ đồ ra, giống như tù phải tội chết, làm trò
cho thế gian, thiên sứ, loài người cùng xem vậy".
4. Chúng ta nhận ra đức tin chân thật nơi Đấng Christ bằng cách nào?
Chúa Jêsus phán: "song ai bền lòng cho đến cuối cùng, thì
sẽ được rỗi". Chịu đựng sự bắt bớ không kiếm được sự cứu rỗi,
sự ấy rất là rõ ràng!
5. Khi sự bắt bớ đến với một quốc gia hay một Hội thánh, ai là Cơ đốc
nhân theo mặt văn hoá sẽ lui đi hết. Chỉ có người nào thực sự nhìn biết Đấng
Christ sẽ còn ở lại. Hãy lưu ý Rôma 8.35, 37-39.
VI. PHẢN ỨNG CỦA
CÁC MÔN ĐỒ (câu
23).
A. Chúa Jêsus phán: "Khi nào người ta bắt bớ các ngươi trong thành
nầy, thì hãy trốn qua thành kia".
1. Những người tin Chúa không cố ý tìm kiếm sự bắt bớ đâu. Chúng ta đừng
bao giờ thử chịu đựng sự bắt bớ vì cớ có sự bắt bớ.
2. Chúng ta không bị buộc phải ở lại trong chỗ nguy hiểm cho tới chừng
chúng ta bị bắt bỏ tù và bị giết.
3. Phaolô và nhiều sứ đồ khác đã noi theo nguyên tắc nầy suốt trong chức
vụ của họ. Họ đã chịu đựng sự bắt bớ chỉ để tiếp cận với người khác mà thôi.
B. Tất cả các tín đồ đều noi theo sự dạy nầy "cho tới
khi Con Người đến". Đây là phần tham khảo tới 144.000 người Do thái
tin theo Đấng Mêsi, họ sẽ rao giảng Tin lành trong kỳ đại nạn. Tuy nhiên, cho tới
chừng Chúa Jêsus đến để cứu chúng ta, chúng ta hãy trở thành hạng môn đồ trung
tín.
PHẦN KẾT LUẬN:
Có một sự khác biệt giữa việc làm một tín đồ
và làm một môn đồ. Quí vị là ai nào? Nếu quí vị được kêu gọi phải trả giá vì cớ
đức tin của mình, thì quí vị có chịu trả giá không?
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét