MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Di
sản của Giăng Báptít
Mathiơ 11:7-15
1. Trong câu 11 của phân đoạn
Kinh Thánh trên, chúng ta thấy một trong những câu nói thường được sử dụng nhất
về Giăng Báptít: "Quả thật, ta nói cùng các ngươi, trong
những người bởi đờn bà sanh ra, không có ai được tôn trọng hơn Giăng
Báp-tít". Tầm mức quan trọng và địa vị của ông trong lịch
sử đã được Vua các vua xác minh. Đời sống và di sản của Giăng không những giúp
chúng ta hiểu biết đầy đủ thêm về chương trình cứu chuộc của Đức Chúa Trời, mà
còn cung ứng cho chúng ta những lẽ thật thuộc linh cho sự sống trong những ngày
sau rốt nầy.
2. Trước khi chúng ta có thể
hiểu rõ ý nghĩa sự tôn trọng của Chúa Jêsus đối với Giăng Báptít, chúng ta phải
nhìn biết bộ khung cuộc sống của Giăng.
A. GIA ĐÌNH của Giăng. Về hai phía gia đình của ông, Giăng ra đời theo gia phổ của
dòng thầy tế lễ. Cha của ông, Xachari là một thầy tế lễ lo phục vụ trong đền thờ
và mẹ ông, Êlisabết là "thuộc về
chi phái Arôn" (Luca 1.5). Mẹ ông là người bà con với
Mary, mẹ Chúa Jêsus. Giống như người anh em theo phần xác của mình, sự ông ra đời
đã được một thiên sứ đến công bố. Sự ra đời của ông rất đặc biệt, trong đó bố mẹ
ông đều đã trải qua những năm tháng son sẻ. Thực vậy, thiên sứ đã bảo Xachari
phải đặt tên đứa trẻ là Giăng, có nghĩa là: "Đức Giêhôva rất giàu ơn”.
Ông ra đời khoảng 6 tháng trước sự giáng sinh của Chúa Jêsus.
B. SỰ XUẤT HIỆN của Giăng. Giống như Samsôn đời xưa, ông là một người Naxirê từ lúc mới
chào đời, không bao giờ cắt tóc. Luca 1.80 chép về thời thơ ấu của ông: "Vả, con trẻ ấy lớn lên, tâm thần mạnh mẽ, ở nơi
đồng vắng cho đến ngày tỏ mình ra cùng dân Y-sơ-ra-ên". Với mái tóc
dài và hàm râu, sinh sống trong đồng vắng sa mạc, mặc áo và thắt lưng bằng da lạc
đà, trông ông giống như một dân dã hơn là giống một nhà truyền đạo!
C. SỰ RAO GIẢNG của Giăng. Khoảng 30 tuổi, Giăng mới bắt đầu rao giảng trong đồng vắng
sông Giôđanh bên ngoài thành Jerusalem .
Sứ điệp của ông là: "Hãy ăn năn, vì Nước Đức Chúa Trời đã đến gần". Ông đã đến để
"dọn
đường cho Chúa", để khiến cho dân sự phải sẵn
sàng để đón Đấng Mêsi. Ông là người tiền khu, là sứ giả của Nhà Vua. Dân chúng đã
đến từ "thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, và cả miền chung quanh sông
Giô-đanh" (đối chiếu 3.1-5).
D. PHÉP BÁPTÊM của Giăng. Giăng là người đầu tiên làm phép báptêm, dìm hay nhúng người
ta xuống nước giống như một biểu tượng bề ngoài về đức tin thuộc linh của họ vậy. 3.6 chép họ chịu "người làm
phép báptêm...xưng tội mình" (đối chiếu 3.11). Luca 3.3 chép
ông đã "giảng dạy về phép báptêm về sự ăn năn để được tha tội". Ngay lúc bắt đầu
chức vụ của Chúa Jêsus, Ngài cũng đã đến với Giăng để chịu phép báptêm.
E. SỰ BỊ TÙ của Giăng. Giăng cũng quở trách về tội lỗi của xứ sở và các nhà cầm quyền
của xứ. Hêrốt Antipas, quan Tổng đốc đã ly dị vợ của mình để lấy Hêrôđia, vợ của
em ông ta là Philíp. Kết quả là, ông bị ném vào tù, nhốt ở một tiền đồn gần Biển
Chết (Machaerus).
F. THẮC MẮC của Giăng. Sau khi bị bỏ tù gần một năm, Giăng bắt đầu có một vài điểm
nghi ngờ hay ít nhất là lầm lẫn về Chúa Jêsus, vì những điều ông mong đợi đều
không ứng nghiệm. Nhờ 2 môn đồ của ông, Giăng đã hỏi: "Có phải
Ngài là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng khác?”
3. Sau khi Chúa Jêsus làm
ra nhiều phép lạ trước mặt các môn đồ của Giăng (Luca 7.21), Ngài sai họ
trở về. Trong câu 7, Kinh Thánh chép họ "đã đi rồi" để đem sứ điệp
nầy về đức tin tươi mới cho vị tiên tri biết. Tuy nhiên, khi Chúa Jêsus xây khỏi
các môn đồ của Giăng, Ngài: "mới phán cùng đoàn dân về việc Giăng".
4. Dường như Chúa Jêsus muốn
phán rằng: "Các ngươi tưởng Giăng mất lòng tin chăng, các ngươi tưởng chức vụ
của ông thất bại chăng, nhưng hãy để ta nói cho các ngươi biết sự thật về ông ấy". Chúa Jêsus đã
phán để khẳng định với khán thính giả của Ngài rằng: cho dù Giăng có những mối
hồ nghi hay nhầm lẫn nhứt thời, di sản của ông rất quan trọng trong lịch sử cứu
chuộc của Đức Chúa Trời.
I. SỰ ĐƯỢC
LÒNG NGƯỜI CỦA GIĂNG (các câu 7-9a).
Chúa Jêsus giải thích di sản của Giăng Báptít bằng cách
chỉ ra lý do nằm ở đàng sau sự ông được lòng người. Ngài đã hỏi câu nầy: "Các ngươi đã đi xem chi nơi đồng vắng?" ba lần. Khi sử
dụng kiểu cách hoa mỹ nầy, qua cách loại trừ Ngài tỏ ra cho họ thấy sự cao trọng
của Giăng trong chương trình của Đức Chúa Trời.
A. Phải chăng dân chúng đến nghe Giăng rao giảng vì ông là "cây sậy bị
gió rung chăng?" (câu 7),
1. Dọc theo hai bên bờ sông Giôđanh, nơi Giăng đến giảng đạo và làm phép
báptêm có rất nhiều sậy. Chúng vốn ốm yếu rất dễ bị "gió
rung". Cây “sậy” là hình bóng nói tới một người bị chao đảo bởi nhận
thức tội lỗi của người ấy về chính trị, quyền lực và sợ hãi.
2. Nếu đã có người nào có nhận thức về tội lỗi, thì đó là Giăng. Ông
công khai đề kháng với các thầy thông giáo, những người Pharisi, người Sađusê
và thậm chí cả chính Hêrốt nữa! Hãy lưu ý lời lẽ cứng rắn của ông khi nói với
các cấp lãnh đạo tôn giáo trong 3.7-12.
3. Đặc điểm của Giăng có thể được tóm tắt trong câu nói của William
Penn: "Đúng là đúng, cho dù mọi người chống lại cái đúng đó, và sai là
sai, cho dù mọi người đang sống vì cái sai đó".
4. Không, dân chúng đã không đi ra để gặp Giăng vì ông là một con người
yếu đuối. Không một “ngọn gió” nào có thể lay động
được một nhân vật mạnh mẽ của Đức Chúa Trời.
B. Phải chăng dân chúng đến nghe Giăng rao giảng vì ông là "một người
mặc áo tốt đẹp?" (câu 8).
1. Trong câu: "một người mặc áo tốt đẹp" Chúa Jêsus
phác họa ra một người yếu ớt, buông thả, bị những xa hoa chiếm hữu. Với sự
khinh miệt, Chúa Jêsus nói thêm: "Kìa, những người mặc
áo tốt đẹp thì ở trong đền vua”, chớ không phải
trong nhà tù của vua!
2. Giăng là một người vốn khoẻ mạnh, ông được mô tả trong 3.4 là "mặc áo bằng
lông lạc đà, buộc dây lưng bằng da; ăn, thì ăn những châu chấu và mật ong rừng" Ông đã sống một
đời sống hoang dã, khổ hạnh hoàn toàn nương vào việc lo chu toàn ý chỉ của Đức
Chúa Trời, không màng tới các biểu hiện bề ngoài của sự giàu có hay đặc ân.
3. Ngược lại với các cấp lãnh đạo tôn giáo trong thời ấy, họ vốn ưa
thích những việc tốt đẹp hơn trong cuộc sống, và ngược lại với nhiều nhà truyền
đạo ngày nay, Giăng không giảng hay sinh sống với một "danh xưng
và đòi hỏi” tin lành thịnh vượng.
4. Không một ai bị lôi cuốn đến với Giăng vì ông “mặc áo đẹp” hoặc những lời
hứa hẹn giả dối về ảnh hưởng và sự giàu có.
C. Phải chăng dân chúng đến nghe Giăng rao giảng vì ông là "một tiên
tri?" (câu 9a).
1. Một lần nữa, một cách hoa mỹ, Chúa Jêsus hỏi: "Nhưng các
ngươi lại đi xem cái chi nữa?" Ngài trả lời cho câu hỏi của
mình: "Một vị tiên tri ư? Phải!"
2. Mặc dù Giăng không lôi cuốn dân chúng bằng cách đùa cợt với cảm xúc của
họ, bằng cách xúi bẩy họ về mặt chính trị, bằng cách chỉ ra hay hứa hẹn một kiểu
cách sống phung phí, ông đã lôi cuốn họ vì ông là "một tiên
tri".
3. Trong lúc nhầm lẫn về tôn giáo
và ao ước mong manh, một “tiên tri” thật đã đến
rao giảng cách chân chính, được Đức Thánh Linh xức dầu.
4. Cũng một thể ấy, người nào thành thật tìm kiếm chân lý sẽ luôn luôn
tìm cách giảng dạy chính xác từ Lời của Đức Chúa Trời.
II. LỜI TIÊN
TRI CỦA GIĂNG (các
câu 9b-11).
A. Giăng còn "hơn Đấng Tiên Tri nữa” (câu 9b).
1. Giăng không những sống như bất kỳ một vị tiên tri nào, mà ông còn là ĐẤNG
tiên tri nữa. Đấng tiên tri thứ nhứt là Môise và chức vụ đã liên tục qua sự phu
tù của Israel ở xứ Babylôn. Khi họ trở về, họ đã không có một lời tiên tri nào
hết trải hơn 400 năm.
2. John MacArthur nói về Giăng như sau: "Ông là đại biểu của
hàng tiên tri, là phát ngôn viên năng nổ, ăn nói lưu loát, chịu chạm trán, và
có quyền phép nhất mà Đức Chúa Trời đã từng kêu gọi. Là vị tiên tri sau cùng,
không những ông tuyên bố rằng Đấng Mêsi sẽ đến, mà Ngài còn đã đến nữa
" (trang 254).
B. Kinh Cựu ước nói trước lời tiên tri của Giăng (câu 10).
1. Giăng vừa là đề tài vừa là Đấng ban phát lời tiên tri. Ông vừa nói
tiên tri cho xứ sở mà vừa nói tiên tri về bản thân mình.
2. Chúa Jêsus trưng dẫn Malachi 3.1 khi Ngài phán: "Nầy, ta
sai sứ giả ta, người sẽ dọn đường trước mặt ta".
3. "Trước mặt ta" sát nghĩa là "ở phía trước" hay đi trước.
Giăng đã đến trước để "dọn" đường cho Chúa Jêsus là sứ
giả của nhà Vua.
4. Giống như một Hội Thánh sẽ sửa soạn cho các tín đồ biết phục sự trong
một Hội Thánh khác, Giăng đã sửa soạn cho dân chúng biết tiếp nhận Chúa Jêsus
là Đấng Mêsi.
C. Chúa Jêsus đã mô tả sự cao trọng của Giăng, song lại thiếu sự sáng
thuộc linh (câu 11).
1. Trong phần trưng dẫn nổi tiếng nầy về việc Giăng cao trọng hơn bất kỳ
"kẻ
nào bởi người nữ sanh ra", Chúa Jêsus sử dụng từ ngữ "quả
thật", hay sát nghĩa là "amen" hầu khẳng định sự thật của
những gì Ngài đang phán dạy.
2. Là một con người, Giăng "tôn trọng hơn", cao siêu hơn bất
kỳ người nào từng sinh ra đời. Ông có cá tánh, quyết định, năng lực v.v… “lớn lao hơn”. Không một người
nào khác được “dấy lên” hay xuất hiện trên bối cảnh lịch sử với những đặc điểm
hay khả năng về mặt con người "tôn trọng hơn" Giăng.
3. Giăng quả là cao trọng, ông đã hầu việc Chúa trong ánh sáng thuộc
linh có giới hạn. Ông đã có khải thị hữu hạn về Chúa Jêsus. Mặc dù cá nhân Giăng
đã làm phép báptêm cho Chúa Jêsus, quí vị và tôi đều biết nhiều về Ngài mặc dù
chúng ta là kẻ "nhỏ hèn nhất trong nước thiên đàng".
G. Campbell Morgan đã diễn giải lời lẽ của Chúa Jêsus
theo cách nầy: "Quí vị đã nhìn thấy nhân vật nầy, về mặt
tự nhiên ông là nhân vật lỗi lạc nhất giữa vòng loài người đã hỏi một câu trong
khi bối rối. Phải, có những việc mà ông không thể biết được, có những phương
pháp mà ông không thể hiểu được, và những linh hồn nhỏ hèn nhất được đưa vào
trong nước thiên đàng sẽ có sự sáng láng lớn hơn nhân vật nầy, với mọi thiên tư
của ông, đã có trong quá khứ. Đứa trẻ nhỏ nhất bước vào Vương quốc của ta bởi lẽ
mầu nhiệm của sự thương xót, sức mạnh và tình cảm của ta, sẽ có sự sáng láng hơn
Giăng, cho tới chừng ông cũng đạt tới chỗ hiểu biết sự ngọt ngào, sự thương xót
và vẻ oai nghi khi bước vào Vương quốc quyền phép nầy”. Morgan tiếp tục
nói: "Giăng là sự sáng đến trước Vương quốc, và kẻ nhỏ hèn nhất trong
Nước ấy còn biết nhiều hơn Giăng" (trang 114).
III. ĐỊA VỊ CỦA
GIĂNG (các câu
12-15).
A.
Có một thời kỳ Vương quốc sẽ bị hãm ép (câu 12).
1. Vì không có một tiên tri nào hết trong 400 năm và vì sứ điệp của Giăng
làm đảo lộn nguyên trạng xã hội từ "ngày ấy...đến nay" đã có tình trạng
"hãm
ép". Khoảng 18 tháng kể từ "ngày Giăng Báptít", cũng kể từ thời
điểm đó "nước thiên đàng bị hãm ép".
2. Đây là một câu khó lý giải,
nhưng lời tiên tri của thiên sứ nói về Giăng trong Luca 1.16-17 chỉ ra rất rõ
ràng: "Người sẽ làm cho nhiều con trai Y-sơ-ra-ên
trở lại cùng Chúa, là Đức Chúa Trời của họ; chính người lại sẽ lấy tâm thần quyền
phép Ê-li mà đi trước mặt Chúa, để đem lòng cha trở về con cái, kẻ loạn nghịch đến
sự khôn ngoan của người công bình, đặng sửa soạn cho Chúa một dân sẵn lòng”.
B.
Giăng là tiên tri cuối cùng trong hàng “tiên tri” (câu 13). Từng lời tiên
tri từ Sáng thế ký cho đến Malachi đều nhắm vào Đấng Christ và kể cả Giăng.
C. Người nào có sự hiểu biết, thì phân biệt Giăng là "Êli là Đấng phải đến" (câu 14).
1. Malachi 4.5-6 nói tiên tri rằng "Êli...sẽ đến" trước Đấng
Mêsi. Người Do thái đã trông mong một sự tái hoá thân thành xác thịt của Êli hầu
đánh dấu thời kỳ của Đấng Mêsi.
2. Thậm chí cho đến hôm nay, người Do thái chính thống đã dành riêng một
chỗ tại bàn tiệc Lễ Vượt Qua cho tiên tri Êli.
3. Chúa Jêsus phán: "Nếu các ngươi muốn hiểu biết..." Nói cách khác:
"Các
ngươi đang trông đợi ông ấy, và giờ đây ta nói cho các ngươi biết, ấy là Giăng".
D. Người nào có hai “lỗ tai” thuộc linh sẽ lắng
nghe từ Giăng (câu 15). Giăng là "Êli" và Chúa Jêsus
là Đấng Mêsi cho những ai chịu tin theo.
IV. NĂM BÀI HỌC
THUỘC LINH TỪ DI SẢN CỦA GIĂNG.
A. Có sự thoả lòng rất lớn khi làm đẹp lòng Chúa Jêsus thay vì làm đẹp
lòng con người ta.
B. Có quyền phép rất lớn trong việc giải bày Lời Đức Chúa Trời mà chẳng
lấy làm xấu hổ.
C. Có sự vui mừng rất lớn trong việc chu toàn ý chỉ của Đức Chúa Trời
trong đời sống của chúng ta.
D. Có nhiều ơn phước rất lớn trong việc sống trong Vương Quốc Sự Sáng.
E. Có sự biết trước rất lớn trong việc nhìn biết nhiều điều sắp sửa hiển
hiện ra.
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét