MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Hạng
người
trong
công cuộc truyền giáo
Mathiơ 10:1-15
1. Ở cuối chương
9, chúng ta đọc thấy những lời lẽ nổi tiếng của Chúa Jêsus về "mùa gặt" trong các câu
37-38. Chúa Jêsus phán với các môn đồ Ngài rằng: "Mùa gặt thì thật
trúng, song con gặt thì ít". Nói cách khác,
Đức Chúa Trời đã sửa soạn mọi sự quanh chúng ta ở mọi thời đại, để gặt lấy con
người, Ngài kéo họ ra để cho họ được cứu. Vấn đề ở đây, ấy là có ít Cơ đốc nhân
bằng lòng làm “con gặt”, có ít người bằng lòng làm chứng nhân để thuật
lại cho dân “sẵn lòng” nầy biết về Chúa Jêsus. Thực ra, Chúa Jêsus tiếp tục
dạy dỗ các môn đồ Ngài nên "cầu xin chủ mùa gặt sai con gặt đến trong mùa
mình". Từ những câu đi trước, tôi tiếp thu ý kiến
cho rằng họ đang đứng bên sườn núi nhìn xuống thành phố hay nhìn xuống đoàn dân
đông kia. Mặc dù điều nầy đặc biệt không được nhắc tới, tôi đoán hết thảy họ đều
quì gối xuống và Chúa Jêsus hướng dẫn họ cầu xin cho có những "con gặt" ngay khi đó.
2. Suốt cuộc đời
tôi, tôi đã nghe mấy câu nầy được sử dụng trong vô số bài giảng và các bài học
Kinh thánh dạy cho nhân sự biết cầu xin Đức Chúa Trời kêu gọi thêm nhiều vị Mục
sư, Truyền đạo, các Nhà truyền giáo cùng những vị Giáo sĩ. Vì một lý do nào đó,
chúng ta kết từ ngữ “con gặt” với những vị Mục sư chuyên
nghiệp. Mặc dù Đức Chúa Trời chắc chắn đang kêu gọi những con người đặc biệt bước
vào các công trường truyền giáo đặc biệt, tôi tin mấy câu nầy đã được áp dụng
cho con cái của Đức Chúa Trời. Chúng ta cần phải cầu xin Đức Chúa Trời “sai phái” từng con cái của
Đức Chúa Trời.
3. Tới điểm nầy,
Chúa Jêsus đã một mình phục sự. Mười hai môn đồ đã theo Ngài nhưng chẳng tham dự
vào chức vụ của Ngài, họ giống như những sinh viên và quan sát viên mà thôi.
Trong khi dạy họ phải cầu xin về "con gặt", Chúa Jêsus đã
kêu gọi họ phải trở thành “con gặt”.
4. Tôi chưa nhấn
mạnh đủ về tầm quan trọng thiết thực của sự cầu nguyện trong công cuộc truyền
giáo. Tuy nhiên, nếu chúng ta chỉ cầu xin Đức Chúa Trời sai phái nhân sự đi ra để
thuật cho kẻ bị hư mất biết về Chúa Jêsus, nhưng tự chúng ta chưa sẵn lòng để
làm chứng cho Ngài, những lời cầu nguyện của chúng ta là không thành thật và giả
hình. Nếu chúng ta có lòng chân thành quan tâm đến kẻ bị hư mất, chúng ta cũng
sẽ cầu nguyện bằng những lời cầu nguyện xưa kia do tiên tri Êsai thốt ra: "Có tôi đây!
Xin hãy sai tôi” (Êsai 6.8).
5. Từ mấy câu nầy,
chúng ta sẽ tiếp nhận sự dạy mà Chúa Jêsus đã ban ra cho các môn đồ Ngài về
công cuộc truyền giáo ngắn hạn tại xứ Galilê. Tuy nhiên, các nguyên tắc cơ bản
của chức vụ được thấy ở đây là rất phổ thông và áp dụng cho từng chức vụ hôm
nay.
I.
CHÚA JÊSUS KÊU GỌI CÁC MÔN ĐỒ NGÀI (các câu 1a, 2-4).
A. Chúa Jêsus đã ký thác tin lành cho các môn đồ Ngài (câu 1a).
1. Động từ theo sau chữ "gọi" rút ra từ chữ proskaleo (pros-kal-eh'-o) sát nghĩa là "gọi trước".
2. Về mặt thực tế, chữ nầy có một ý nghĩa sâu sắc hơn. Nó có nghĩa là: "kêu gọi ai
đó đến gặp hầu cho giáp tận mặt". Trong quân đội, nó có nghĩa
là báo cáo cho cấp trên các thứ lịnh lạc.
3. Khi câu nầy nói rằng Chúa Jêsus: "gọi mười
hai môn đồ đến", gọi như thế không phải để nói chuyện tùy tiện đâu.
Gọi như thế với mục đích nhận lịnh lạc, để được uỷ nhiệm công vụ. Hãy chú ý
trong câu 1, họ được gọi là "mười hai môn đồ" nhưng trong câu
2 họ được gọi là: "mười hai sứ đồ". "Môn
đồ" là những người học việc; "sứ đồ" là những người được
sai đi. "Môn đồ" là những học viên. "Sứ đồ" là các giáo sĩ.
Chúa Jêsus đã ký thác cho họ với một chức vụ riêng biệt.
4. Cũng một thể ấy, Chúa Jêsus ký thác cho từng tín đồ với đặc ân trở
thành một con gặt (Mathiơ 28.19-20; Công vụ các sứ đồ 1.8). Hãy đưa ra
những câu hỏi quan trọng nầy: “Tôi có minh chứng mình xứng đáng với sự tin
cậy của Chúa Jêsus chưa? Tôi có chịu ra đi không?
5. Chúng ta là một Hội thánh ai cũng biết là đang dạy dỗ Kinh thánh.
Chúng ta có sự thờ phượng, sự hiệp một, sự dạy dỗ rất trang trọng. Tuy nhiên,
trừ phi chúng ta đi ra với tin lành, chúng ta chưa phải là một Hội thánh trưởng
thành. Trong đời sống cầu nguyện của tôi cho Hội thánh của chúng ta, tôi dám chắc
về sự thiếu lòng quan tâm đối với kẻ bị hư mất trong cộng đồng của chúng ta.
Chúng ta cần phải tan vỡ với “lòng thương xót” của Chúa Jêsus
dành cho kẻ bị hư mất.
B. Chúa Jêsus gọi đích danh các môn đồ (các câu 2-4).
1. Trong các câu 2-4, chúng ta thấy danh sách đầu
tiên đích danh các môn đồ trong các sách Tin lành. Từng sách Tin lành cũng như
sách Công vụ các sứ đồ đều có danh sách đó. Chúng ta có thể dành một số thời
gian để học biết về từng nhân vật nầy, rồi chúng ta sẽ học tiếp.
2. Bảng danh sách tên tuổi của những người nầy cho tôi thấy rằng sứ mệnh
nầy rất cá nhân đối với Chúa Jêsus, Ngài khiến cho số người nầy trở thành hạt
nhân của Hội thánh Ngài.
3. Giống như Chúa Jêsus đang gọi đích danh các tín hữu nầy, để đi ra bước
vào mùa gặt. Ngài cũng đang gọi đến tên của quí vị đấy. Nếu quí vị đã được cứu,
quí vị đang có một trách nhiệm cá nhân, một lịnh lạc trực tiếp của Chúa Jêsus
là phải chia sẽ sứ điệp Tin lành.
C. Chúa Jêsus gọi các môn đồ không phải vì họ ra gì đâu, mà là họ sẽ ra
thể nào đấy thôi.
1. Quí vị có thể nói: "Thưa Mục sư, tôi không biết sẽ ra sao.
Tôi chưa chuẩn bị. Tôi sợ cách những người nầy đáp ứng lại với tôi lắm!” Chúa Jêsus
không gọi quí vị vì quí vị là ai, mà vì điều mà Ngài sẽ biến quí vị phải trở
thành!
2. Mấy gã du đảng nầy thực chất chẳng có giá trị chi hết. Bản thân họ chẳng
có một thứ chi để mang tới dâng cho Chúa Jêsus. Giống như người thợ gốm nơi cái
bánh xe, Chúa Jêsus bắt lấy mấy người nầy rồi từ từ nắn đúc họ thành những chiếc
bình đáng dụng cho Ngài!
3. Chúa Jêsus không yêu cầu chúng ta phải sống xứng đáng, có khả năng,
hay có năng khiếu. Ngài chỉ yêu cầu chúng ta phải bằng lòng để được sử dụng.
Còn chúng ta thì sao?
II.
CHÚA JÊSUS MẶC LẤY QUYỀN PHÉP CHO CÁC MÔN ĐỒ NGÀI (Câu 1b).
A. Từ ngữ "quyền phép" trong câu 1
rút ra từ chữ exousia. Đây là một từ có nghĩa là:
"quyền theo luật pháp, pháp quyền, quyền lực". Khi một sĩ
quan cảnh sát chận quí vị lại vì chạy quá tốc độ, anh ta đang sử dụng “quyền lực” hay thẩm quyền.
Tôi không có thứ “quyền lực” đó.
B. Chúa Jêsus đã ban cho các môn đồ "quyền lực” mà họ không có
trước đó. Họ có thẩm quyền trên "tà linh ô uế, đuổi chúng đi”. Ma quỉ giờ đây
trốn tránh họ y như chúng đã trốn tránh Chúa Jêsus vậy. Họ có "quyền phép ... chữa các thứ tật bịnh". Giống như Chúa
Jêsus, giờ đây họ có quyền chạm đến thân thể kẻ bịnh, và khiến thân thể ấy được
lành mạnh.
C. Tại sao Chúa Jêsus lại ban cho họ các khả năng nầy? Xuyên suốt kỷ
nguyên các sứ đồ, sức sống của các sứ đồ tiên khởi, Đức Chúa Trời đã ban cho
con người quyền phép kỳ diệu nầy giống như "các ân tứ bằng dấu hiệu". Không một phần
tham khảo nào trong Tân ước mà các dấu nầy không xác định uy quyền cho sứ điệp
mà họ đang rao giảng. Đây là giấy uỷ nhiệm, là môn bài, là chứng từ, v.v...
D. Chúa Jêsus ban cho từng tín đồ uy quyền của Đức Thánh Linh. Trong
Công vụ các sứ đồ 1.8, Chúa Jêsus phán: "Nhưng các
ngươi sẽ nhận lãnh quyền phép khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi". Khi quí vị được
cứu, quí vị sẽ chịu báptêm bởi Đức Thánh Linh và Ngài sẽ ngự trong lòng của quí
vị. Ngài cư trú thường trực ở trong mỗi tín đồ. Quyền phép của Đức Chúa Trời đã
dựng nên thế giới đang hiện hữu trong chính thân thể của quí vị.
E. Đức Chúa Trời sẽ không buộc quí vị phải làm một việc gì mà Ngài không
mặc quyền phép cho quí vị lo làm. Khi Đức Chúa Trời yêu cầu quí vị phải làm chứng
cho ai đó biết về Chúa Jêsus, Ngài không để cho quí vị thực thi công việc ấy bằng
chính sức riêng của quí vị đâu! Đức Thánh Linh sẽ mặc lấy quyền phép cho những
gì quí vị làm chứng trong danh Chúa Jêsus.
III.
CHÚA JÊSUS ĐIỀU KHIỂN CÁC MÔN ĐỒ NGÀI (các câu 5-6).
A. Các môn đồ đã nhận lãnh lịnh lạc của Chúa Jêsus (câu 5a).
1. Chức vụ nầy có lẽ là truyền giáo ngắn hạn. Mác 6.7 nói rằng Chúa
Jêsus sai phái họ ra đi “từng đôi một”. Chúa Jêsus cẩn
thận giám sát họ. Giống như một con chim mẹ đưa bầy con của nó ra khỏi ổ an
toàn. Chúa Jêsus đã sai phái họ ra đi giống như "con gặt vào trong mùa
của mình".
2. Hãy lưu ý rằng trước tiên Chúa Jêsus "truyền" lịnh cho họ. "Truyền" ra từ chữ Hylạp
có nghĩa là: "chuyển một thông điệp”. Bản NASV dịch từ nầy
là "dạy dỗ". Đó là một từ ngữ được sử dụng trong nhiều cách thức
vào thế kỷ thứ nhứt.
a. Chữ nầy nói tới lịnh lạc của viên sĩ quan cao cấp trong quân đội.
b. Chữ nầy nói tới sự triệu tập phiên toà chính thức, một trát đòi.
c. Chữ nầy nói tới một lời thề thốt giữa hai người bạn, một lời nói danh
dự.
d. Chữ nầy nói tới một đơn thuốc được vị bác sĩ ghi ra cho bịnh nhân.
e. Trong từng cách dùng, chữ nầy mang ý tưởng buộc phải vâng theo.
3. Quí vị có bao giờ tìm cách làm một việc gì đó mà không có phần hướng
dẫn chưa? Chúa không sai phái chúng ta vào trong mùa gặt mà không có huấn thị
bao giờ. Chúng ta đến với Hội thánh để nhận lãnh lời huấn thị, nghiên cứu Kinh
thánh, cầu nguyện. Chúng ta ra đi để làm chứng đạo.
B. Các môn đồ không được phép gặp người dân Ngoại mà phải đi gặp người
Do thái (câu 5b-6).
1. Chúa Jêsus phán rằng khi họ ra đi, họ đừng "đi đến dân
Ngoại" hoặc "vào một thành nào của dân Samari cả”. Thực ra, Chúa
Jêsus đã ban cho họ một mạng lịnh đặc biệt để lo rao giảng Tin lành chỉ cho người
Do thái mà thôi.
2. Phải chăng Chúa Jêsus không yêu thương “dân Ngoại” và "người
Samari"? Chắc là Chúa có yêu thương họ! Thực ra trong nhiều trường hợp Chúa
Jêsus đã phục vụ cho họ. Sứ đồ Phaolô đã nói, Chúa: “đã chọn người nầy [Phaolô] làm một đồ dùng ta, để đem danh ta đồn ra trước
mặt các dân ngoại".
3. Cho phép tôi đưa ra ba lý do tại sao Chúa Jêsus đã đưa ra mạng lịnh nầy:
a. Thứ nhứt, nếu trước tiên họ đến với người không phải là người Do
thái, người Do thái sẽ không tiếp rước họ.
b. Thứ hai, sẽ có khó khăn đủ để giảng đạo cho người ta theo chính văn
hoá của họ, mà sứ điệp chẳng phải vượt quá các hàng rào văn hoá.
c. Thứ ba, các môn đồ cần phục vụ cho một nhóm người có hạn định. Những
phần việc sẽ dễ dàng hơn khi họ là một dân đặc biệt nào đó.
4. Chúa Jêsus đã giới hạn họ chỉ "đến với chiên lạc
mất của nhà Israel". Thực ra, mặc dù Ngài phục sự cho nhiều sắc tộc
khác nhau, Ngài không bao giờ rời khỏi xứ Palestine. Ngài phán với một người đờn
bà xứ Canaan: "Ta chịu sai đến đây, chỉ vì các con chiên lạc mất của nhà Ysơraên đó
thôi" (Mathiơ 15.24).
C. Mặc dù Sứ Mệnh Cao Cả rất phổ thông và bao quát, địa chỉ của chúng ta
rất là đặc biệt và cá nhân.
1. Nếu Chúa Jêsus có một phần việc đặc biệt, nhất định, nếu Ngài ban cho
các môn đồ Ngài một phần việc đặc biệt, nhất định, thì chúng ta càng phải cần tới
một phần việc đặc biệt, nhất định là dường nào!
2. Nguyên tắc nầy áp dụng cho Hội thánh chúng ta. Bất cứ một chức vụ nào
mà không có các mục tiêu trước, sau thì chỉ là chức vụ tầm thường mà thôi. Những
chức vụ không có mục tiêu là loại chức vụ thấp kém. Chúng ta cần phải nhắm mọi
nổ lực của mình vào việc tiếp cận với hạng người đặc biệt nào đó. Tôi tin rằng
nhóm người đó là những gia đình chưa tin Chúa.
3. Nguyên tắc nầy áp dụng cho từng cá nhân Cơ đốc. Quí vị không thể làm
hết mọi việc được đâu! Quí vị không thể dạy một lớp học, lái xe bus, hát trong
ca đoàn, phục vụ 5 ban ngành, năng động trong sự thăm viếng – chứng đạo, rồi
lãnh đạo một câu lạc bộ Kinh thánh Tiền Phong và có hiệu quả. Hãy xét lại
các ân tứ thuộc linh của quí vị đi! Hãy cầu xin Đức Chúa Trời hướng dẫn cho quí
vị đến với những chức vụ đặc biệt có hạn và chúc phước mọi sự cho quí vị. Khi ấy
quí vị sẽ đi mà có kết quả.
IV.
CHÚA JÊSUS ĐANG PHÁN DẠY QUA CÁC MÔN ĐỒ CỦA NGÀI (các câu 7-8).
A. Các môn đồ phải rao giảng trong danh Chúa Jêsus (câu 7).
1. Chúa Jêsus đã ban cho họ sứ điệp họ phải rao giảng: "Nước Đức
Chúa Trời đã đến gần". Tất nhiên là họ cần phải được chuẩn bị và
trau chuốt cẩn thận, phải biết giải thích và làm cho sứ điệp được sáng tỏ, nhưng
đó là phần chủ động của họ.
2. Người bị hư mất không cần phải học về thời kỳ tiền thiên hi niên hoặc
hậu thiên hi niên. Họ không cần phải nghe tranh cãi về thần học tân hay cựu
phái. Họ không cần phải nghe thuyết nầy hay thuyết kia (như thuyết Calvin chẳng
hạn). Họ cần phải nghe biết về tình yêu thương và sự tha thứ của Chúa
Jêsus!
3. Người bị hư mất không quan tâm gì tới Hội thánh. Người bị hư mất
không quan tâm đến tín điều của chúng ta. Người bị hư mất không quan tâm đến chức
vụ của chúng ta. Họ đang quan tâm đến họ sẽ sống đời đời ở đâu mà thôi! Họ đang
quan tâm đến việc làm sao kéo đời sống của họ lại. Chúng ta đến với Hội thánh để
học hỏi, chúng ta đi ra để làm chứng.
4. Khi chúng ta chia sẻ tin lành, Chúa Jêsus đang phán qua chúng ta (I
Côrinhtô 2.1-5).
B. Các môn đồ phải phục vụ trong danh Chúa Jêsus (câu 8).
1. Chúa Jêsus đã ban cho họ “quyền phép” hay uy quyền rồi.
Ngài truyền cho họ phải: “chữa lành kẻ đau, khiến sống kẻ chết, làm sạch kẻ
phung, và trừ các quỉ".
2. Mỗi phép lạ do Chúa Jêsus làm ra là một sự bày tỏ ra lòng thương xót
và tình yêu thương của Ngài dành cho con người. Khả năng của sứ đồ để làm ra
các việc làm lạ lùng nầy không những là xác định uy quyền trong chức vụ của họ,
mà còn là những dấu hiệu chỉ ra tình yêu thương của Đức Chúa Trời.
3. Người thế gian tiếp thu, và nhận lãnh mà chẳng hề ban cho. Các tiên
tri cùng những chức vụ giả đều lấy cái tôi làm trung tâm và rất ích kỷ, luôn
luôn đòi hỏi sự cúng dường mà chẳng hề bố thí. Ngược lại, là môn đồ của Đấng
Christ, chúng ta cần phải động lòng thương xót cứu giúp cho những ai đang bị tổn
thương. Điều nầy cung ứng uy tín cho sứ điệp của chúng ta.
4. Chúa Jêsus phán: "Các ngươi đã được lãnh không thì hãy cho
không". Các vị sứ đồ không sử dụng khả năng của họ
vì lợi lộc cá nhân ích kỷ, mà vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã
ban cho “không” các ân tứ lớn lao cho mỗi một người chúng ta.
Chúng ta đang có những khả năng, sức lực, thì giờ và tài nguyên được Đức Chúa
Trời ban “không” cho chúng ta. Khi chúng ta
"cho không" các ân tứ nầy để giúp đỡ cho nhiều người
khác, chúng ta kiếm được khả năng lắng nghe.
5. Chúa Jêsus phán qua các việc lành của chúng ta với những người khác.
Trong Mathiơ 10.42, Chúa Jêsus phán: "Ai sẽ cho
một người trong bọn nhỏ nầy chỉ uống một chén nước lạnh, vì người nhỏ đó là môn
đồ ta, quả thật, ta nói cùng các ngươi, kẻ ấy sẽ chẳng mất phần thưởng của mình
đâu".
V.
CHÚA JÊSUS TIẾP TRỢ CHO CÁC MÔN ĐỒ CỦA NGÀI (các câu 9-10).
A. Các môn đồ không phải lo lắng về tiền bạc (câu 9).
1. Chúa Jêsus phán: "Đừng đem vàng, hoặc bạc, hoặc tiền trong lưng
các ngươi".
2. Khi quí vị đi nghĩ hè, có lẽ quí vị dùng loại ngân phiếu của du
khách, thẻ tín dụng và có thể một số lớn tiền mặt. Bố tôi luôn luôn nói: "Đừng bao
giờ ra khỏi nhà đi đâu mà không đủ tiền để trở về nhà”.
3. Chúa Jêsus đã ban cho các môn đồ Ngài một mạng lịnh ngược lại. Khi họ
đi ra, họ cần phải tin cậy Chúa tiếp trợ cho mọi nhu cần của họ.
4. Tất cả các Hội thánh đều đối diện với nhu cần
tài chánh từng hồi từng lúc. Tôi chẳng thường lo lắng qua các thời điểm nầy vì Đức
Chúa Trời tiếp trợ cho mọi nhu cần của chúng ta, chớ không phải người ta.
B. Các môn đồ không phải lo lắng về các khoản tiếp trợ (câu 10).
1. Cái "bao" được nhắc tới trong câu 10 có lẽ là một túi đựng đồ
ăn mà người ta thường mang theo khi “đi đường”. Thực vậy,
Chúa Jêsus đang phán: "Thậm chí đừng mang theo túi đồ ăn trưa”.
2. Họ không nên mang theo "hoặc hai áo, hoặc
giày, hoặc gậy". Áo ở đây là áo khoác ngoài đóng vai trò như áo
choàng và như vai trò chiếc giường ngủ. Thường thì các du khách mang giày vì cớ
địa hình địa vật. Chúa Jêsus phán họ không phải đem theo các thứ phụ thuộc, chỉ
đem theo những cái cần thiết mà thôi.
3. Chúa Jêsus phán: "vì người làm việc đáng được đồ ăn" hay sự ủng hộ.
Ngài đang dạy cho họ biết tin cậy nơi Đức Chúa Trời tiếp trợ cho các nhu cần của
họ.
4. Tôi thích Philíp 4.19, ở đây chép: "Đức Chúa
Trời tôi sẽ làm cho đầy đủ mọi sự cần dùng của anh em y theo sự giàu có của
Ngài ở nơi vinh hiển trong Đức Chúa Jêsus Christ".
C. Các môn đồ không phải lo về nơi ở (các câu 11-13).
1. Chúa Jêsus bảo họ rằng khi họ vào "thành nào hay là làng
nào" họ phải "hỏi thăm ai là người đáng tiếp rước
mình". "Đáng" chỉ ra bổn tánh thuộc linh hay đạo đức của
chủ nhà.
2. Họ từng thấy một ngôi nhà “đáng” để cư ngụ
trong đó, họ phải "ở nhà họ" cho tới lúc họ
rời khỏi thành ấy. Họ không cần phải tìm kiếm loại phòng ốc đủ tiện nghi mà
chi.
3. Là tín đồ chúng ta cần phải học biết sự thoả lòng. Trong xã hội chúng
ta, có một sự phấn đấu liên tục để đạt cho kỳ được sự sung túc, giàu có, và nhiều
của cải.
a. I Timôthê 6.6 chép: "Vả, sự tôn kính cùng sự thỏa lòng ấy là
một lợi lớn”.
b. Trong Philíp 4.11-13, Phaolô viết: "Không phải tôi muốn
nói đến sự cần dùng của tôi; vì tôi đã tập hễ gặp cảnh ngộ nào, cũng thỏa lòng ở
vậy. Tôi biết chịu nghèo hèn, cũng biết được dư dật. Trong mọi sự và mọi nơi,
tôi đã tập cả, dầu no hay đói, dầu dư hay thiếu cũng được. Tôi làm được mọi sự nhờ
Đấng ban thêm sức cho tôi”.
VI.
CHÚA JÊSUS ĐƯỢC TIẾP NHẬN QUA CÁC MÔN ĐỒ CỦA NGÀI (các câu 11-15).
A. Người nào tiếp nhận các môn đồ của Chúa Jêsus là tiếp nhận Chúa
Jêsus.
1. Chúa Jêsus nói rằng khi các môn đồ được tiếp nhận trong trong một “ngôi nhà” họ phải “cầu bình an” cho nhà đó và nếu
nhà đó "xứng đáng" cho họ ở thì “sự bình an của họ xuống
cho” nhà đó.
2. Việc “cầu bình an” là từ ngữ Shalom theo tiếng
Hybálai. “Sự bình an” nầy còn có ý nghĩa sâu sắc hơn, nó đề
cập tới sự toàn vẹn của cả thân, hồn, thần.
3. Nói cách khác, khi người ta tiếp nhận các sứ đồ, họ phải phục vụ cho
những người ấy theo một phương thức đầy đủ nhất. Họ không giữ lại một ơn phước
nào đối với những người sẵn lòng tiếp rước họ.
4. Mathiơ 10.41 chép: "Ai rước một đấng tiên
tri vì là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của đấng tiên tri".
5. Đôi khi Đức Chúa Trời đặt chúng ta vào những lãnh vực mà người ta
không nhiệt tình lắm với Tin lành. Tuy vậy, vô luận vị trí của chúng ta là ở chỗ
nào, chúng ta nên tập trung vào những người sẵn lòng tiếp đón mình nhất.
B. Người nào chối bỏ các môn đồ của Chúa Jêsus, họ đang chối bỏ Chúa
Jêsus.
1. Nếu nhà ấy không “xứng đáng”, Chúa Jêsus phán:
“thì
sự bình an các ngươi trở về các ngươi". Đây là cách nói: "Hãy rút lại
ơn phước”. Khi rời khỏi một thành hay một làng như thế, họ phải: "phủi bụi đã
dính chơn các ngươi".
2. Người nào chối bỏ các
tôi tớ của Chúa Jêsus, họ đang chọn chối bỏ Chúa Jêsus. Chúa Jêsus phán sự tệ hại
giáng trên những kẻ nầy trong ngày phán xét còn tồi tệ hơn những gì đã xảy ra
cho “thành Sôđôm
và Gômôrơ”, là nơi Đức
Chúa Trời đã mưa lửa và diêm sinh xuống.
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét