MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Một bộ
ba thí dụ
Mathiơ 13:24-43
1. Tuần qua chúng
tôi đã giới thiệu chương Kinh Thánh nầy nói về các thí dụ. Chúa Jêsus "lấy
lời ví dụ mà phán những điều đó". Câu 34 cho chúng ta biết rằng "Ngài
chẳng phán điều gì cùng họ mà không dùng lời ví dụ".
A. "Ví
dụ" ra từ chữ parabole, là một từ kép gồm ballo, "ném
hay đặt để", và para, có nghĩa là "kề
bên". Như vậy ví dụ là một câu chuyện hay một minh hoạ được đặt kề bên một
lẽ thật hay một nguyên tắc theo Kinh Thánh để so sánh, để làm cho sáng tỏ và dễ
hiểu.
B. Mặc dù Chúa Jêsus đã sử dụng
rồi một số minh hoạ trong phần nghiên cứu của chúng ta về sách Mathiơ, phân đoạn
nầy được ghi ra vì những câu chuyện đặc biệt được xem là ví dụ và vì ý nghĩa chỉ
được tỏ ra cho các môn đồ mà thôi.
2. Chúng ta cũng hãy xét lại bối cảnh trong các
câu 1-2.
A. Hướng về cuối một ngày bận
rộn, "cũng ngày ấy" Chúa Jêsus "ra
khỏi nhà" nơi mà Ngài mới dạy dỗ và
tranh cãi với các thầy thông giáo và người Pharisi rồi "ngồi
bên mé biển".
B. Trong khi Ngài ngồi ở đó
nhìn ra phía biển: "đoàn dân nhóm họp xung quanh Ngài đông
lắm". Vì vậy, Chúa Jêsus "phải xuống thuyền mà ngồi" và dân chúng thì đứng
trên “bờ”. Bờ biển ấy đã được dựng nên
như một giảng đường thiên nhiên và nước vọng lại giọng nói của Ngài hầu cho hết
thảy mọi người đều nghe được.
C. Trong khi ngồi trên chiếc
thuyền ấy: "Ngài dùng thí dụ mà giảng nhiều điều cho họ".
3. Trong mỗi thí dụ nầy, Chúa Jêsus ví "nước
thiên đàng" với các sự cố hay những hoàn cảnh trong cuộc sống
hàng ngày ở xứ Palestine
trong thế kỷ đầu tiên. "Nước thiên đàng" được định nghĩa
là quyền cai trị và sự trị vì của Đức Chúa Jêsus Christ trong đời sống của
chúng ta. Cụm từ ấy đề cập tới vương quốc thuộc linh hiện tại của Đấng Christ một
ngày kia sẽ trở thành một Nước thuộc thể.
4. Chúng ta tiếp tục xem xét những sự dạy của
Chúa Jêsus theo cách ví dụ: Ví dụ nói tới lúa mì và cỏ lùng,
Ví dụ nói tới hột cải và Ví dụ
nói về men.
I. Ví dụ nói tới
lúa mì và cỏ lùng (các câu 24-30).
A. Hành động phá hoại của một
vụ mùa (các câu 24-26).
1. Trước tiên Chúa Jêsus nói
tới "người kia", một nông dân "gieo
giống tốt trong ruộng mình". Trong Ví dụ
nói về người gieo giống, Chúa Jêsus đã sử dụng hình bóng nói về đất để giải
thích lẽ thật của Kinh Thánh. Lần nầy vấn đề không phải là đất nữa mà là giống.
2. Tuy nhiên, sau khi “giống
tốt" đã được gieo ra, "đang khi người
ta ngủ" (không phải do biếng nhác, mà vì khi ấy là đêm tối) "kẻ
thù" đã đột nhập vào ruộng rồi "gieo cỏ
lùng vào trong lúa mì".
3. "Cỏ
lùng" ra từ chữ Hy lạp zizanion (dziz-an'-ee-on) có ý nói tới loại
cỏ lúa ma hay giống giả. “Cỏ lùng” rất giống với lúa mì cho tới
khi lúa mì đã chín và trổ bông. Vì “cỏ lùng” có thể làm hư hại
hoặc huỷ diệt một vụ lúa, một hành động như thế bị xem là một tội ác và bị ngăn
cấm bởi luật lệ của người La mã.
4. Một vài tuần sau: "khi
lúa mì lớn lên và trổ bông" thì "cỏ
lùng cũng lòi ra" công việc của kẻ thù quá rõ
ràng.
B. Các thắc mắc của hàng tôi
tớ (các câu 27-28).
1. Khi các tôi tớ nhìn thấy “cỏ
lùng”, họ "bèn đến với chủ" rồi hỏi: "Thưa
chủ, chủ không gieo giống tốt trong ruộng chủ sao? Vậy thì cỏ lùng bởi đâu mà
ra". Họ đã lẫn lộn rồi.
2. Người “chủ” chỉ cho họ thấy
manh mối khi người nói: "Ấy là một kẻ thù đã làm điều đó". Không phải là bất
thường cho một ít “cỏ lùng” hay các thứ cỏ
khác mọc lên trong một ruộng lúa, nhưng số lượng nầy chỉ có thể có từ một sự
phá hoại có chủ ý.
3. Các tôi tớ đưa ra thắc mắc
khác: "Vậy chủ có muốn chúng tôi đi nhổ cỏ đó chăng [cỏ
lùng]?" Họ đã lo sợ “cỏ lùng” sẽ phá hoại hoàn
toàn lúa mì và họ tìm cách cứu lấy những gì có thể thu hoạch được.
C. Đáp ứng của người gieo giống
(các câu 29-30).
1. Người "chủ" là một nông dân
rất khôn ngoan. Ông ta vốn biết rõ việc nhổ bỏ cỏ lùng cũng sẽ làm trốc rễ cây
lúa mì vì rễ của chúng không nghi ngờ chi nữa đã đan quyện vào nhau. Ông ta
nói: "Chẳng nên, e khi nhổ cỏ lùng, hoặc
các ngươi nhổ lộn lúa mì đi chăng".
2. Ông ta cũng sợ rằng lúa tốt
sẽ bị xem là cỏ lùng, vì vậy ông ta nói: "Hãy để cho
cả hai thứ cùng lớn lên cho đến mùa gặt".
3. Khi tới lúc gặt hái, ông
ta sẽ đưa “con gặt” đến, họ vốn biết rõ phải
làm gì khi thu hoạch hơn "các tôi tớ" của ông ta. Ông
ta sẽ bảo “các con gặt trước hết hãy nhổ cỏ lùng"
rồi
tiếp đến "bó lại từng bó mà đốt đi". Chỉ khi đó họ mới
"thâu trữ lúa mì" vào nhà "kho".
4. Giống như Ví dụ
nói về người gieo giống, chúng ta sẽ trông thấy sau đó trong các câu 36-43
rằng Chúa Jêsus đã giải thích ví dụ nầy cho các môn đồ Ngài.
II. Ví dụ nói tới
hột cải (các câu 31-32).
A. Hột cải là hột nhỏ nhất
trong các loại giống (câu 31).
1. Một lần nữa, khi nói với “đoàn
dân đông” Chúa Jêsus đã phán rằng "nước thiên đàng" thì giống như
"một hột cải" đã được “gieo
ra” trong “ruộng”.
2. Tính chất đặc biệt rõ
ràng nhất của “hột cải” là kích cở rất nhỏ của nó.
Trong câu 32, Chúa Jêsus phán rằng hột ấy "thật nhỏ hơn
cả các giống khác".
3. Những kẻ hay chỉ trích
Kinh Thánh đã chỉ vào câu nói nầy hầu tìm cách chứng minh rằng Kinh Thánh là
sai lầm và Chúa chẳng toàn tri chi hết. Cả hai đề nghị đều là những lời giả dối
được truyền ra bởi những kẻ không muốn tin theo.
4. Theo văn mạch, Chúa Jêsus
đang phán về các thứ “giống” của nhà nông. Có các thứ giống
khác nhỏ hơn giống cải, thế nhưng chúng không phải là loại giống để làm vườn.
Tân ước sử dụng từ ngữ "hột giống" luôn luôn đề cập
tới loại giống làm vườn.
5. "Cải" là một thứ hoa
màu được sử dụng rộng rãi trong từng nơi trên thế giới. Ngày nay nó được sử dụng
trong công nghệ thương mại về phim ảnh.
B. Hột cải lớn lên thành một
cây lớn (câu 32).
1. Mặc dù "hột
cải" thì nhỏ hơn mọi thứ giống làm vườn khác: "khi đã mọc
lên" thì nó lớn hơn các loại cây khác trong vườn, lớn đến nỗi nó "trở
thành cây cối", một cây lớn đủ "cho
đến nỗi chim trời tới làm ổ trên nhành nó được".
2. Mặc dù có nhiều loại cây
cải trở thành những bụi gai nhỏ, đã có một số cây cải trong xứ Palestine lớn
lên cao khoảng 12 đến 15 feet.
C. Hiểu biết thí dụ nói tới
hột cải.
1. Chúng ta không có một tường
trình nào nói về Chúa Jêsus giải thích ý nghĩa của ví dụ nầy. Sở dĩ như vậy là
vì ý nghĩa quá rõ ràng rồi.
2. Ý nghĩa của ví dụ hoàn
toàn rất đơn giãn. Giống như một "hột cải", Nước khởi sự rất
là nhỏ, và rồi lớn lên rất to lớn.
3. Khi Chúa Jêsus bắt đầu giảng
đạo, Ngài đã có một vài môn đồ vào lúc ban đầu, kế đó họ lớn lên với một số lượng
rất lớn.
4. Trong kỷ nguyên của Hội
Thánh, trước ngày Lễ Ngũ Tuần, đã có chừng 120 người trong Hội Thánh. Tuy
nhiên, chỉ có một vài chương sau đó các vị sứ đồ được gọi là: "những
người làm đảo lộn thế gian”.
5. Khi chúng ta chia sẻ Tin
lành nói tới Nước Trời, nó khởi sự thật nhỏ với những lần làm chứng của chúng
ta, vững chắc đối với Kinh Thánh, ngợi khen Chúa, tuy nhiên Tin lành ấy có thể
lớn lên làm thay đổi nhiều đời sống và nhiều thế hệ tân tín hữu.
6. Trong nhà thờ nầy, công
tác của chúng ta dành cho Nước Trời dường như nhỏ bé lắm, mà còn đời đời nữa,
nó sẽ nói ra công việc lớn lao là thể nào!
7. Bất chấp tầm cỡ, bất chấp
sự chống đối, bất chấp “cỏ lùng”, "bụi
gai" và "kẻ thù", Nước Trời sẽ cứ tồn tại.
Chúa Jêsus đã phán trong Mathiơ 16.18: "Còn
ta, ta bảo ngươi rằng: Ngươi là Phi-e-rơ, ta sẽ lập Hội thánh ta trên đá nầy,
các cửa âm phủ chẳng thắng được hội đó”.
III. Ví dụ nói
về men (câu 33).
A. Ví dụ nầy cũng dạy cho
chúng ta biết rằng những việc nhỏ có thể có ảnh hưởng rất lớn.
1. “Người
đàn bà kia” đang làm bánh là một cảnh tượng thông thường trên khắp xứ Palestine
trong thời của Chúa Jêsus. Mỗi ngày những người đàn bà trong các gia đình đều
lo làm bánh. Công việc nầy đã và đang là yếu tố chính trong cuộc sống.
2. Theo hàng trăm năm truyền
khẩu, một người đàn bà sẽ tiết kiệm một ít “men” trước khi nướng
bánh rồi dùng nó qua ngày sau cho đồ ăn của ngày hôm sau. Một trong những truyền
khẩu về đám cưới nói người mẹ phải ban cho con gái mình một ít “men” trong ngày cưới.
3. Mặc dù “men” giống như “hột cải” khởi sự rất nhỏ,
nó ảnh hưởng đến hết thảy “các đấu bột”, cho tới chừng
nào bột dậy cả lên.
4. Phần nhỏ nhất trong “Nước” của Đức Chúa Trời
vẫn có ảnh hưởng rất lớn, vì ảnh hưởng của “Nước” có chứa quyền
phép của Đức Chúa Trời, và Lời của Ngài.
B. Men ở trong Bánh là ảnh hưởng
chính.
1. Bánh có men luôn luôn là ăn
ngon hơn và đáng thưởng thức hơn bánh không men. Nó tiêu biểu cho những việc tốt
lành trong cuộc sống.
2. Khi Đức Chúa Trời truyền
cho dân sự Ngài phải lìa Ai cập, Ngài đã bảo họ trộn bánh không men để nhắc cho
họ nhớ về những lúc khó khăn trong khi sống trong một xứ tà giáo.
3. Mặc dù men đôi khi mới được
dùng trong Kinh Thánh tiêu biểu cho năng lực lan toả của tội lỗi, đấy không phải
là trường hợp ở đây.
C. Ảnh hưởng tích cực của Nước
Đức Chúa Trời đến từ bên trong.
1. Người đàn bà trong ví dụ đã
"trộn" men trong “bột”. Bà ta ấn sâu men
vào bột để nó lan rộng và khiến cho bột dậy lên.
2. Cũng một thể ấy, chúng ta
phải bị “trộn” trong xã hội của chúng ta, không phải để cho chúng
ta được chú ý tới, mà chúng ta cần phải xâm nhập thật sâu vào bên trong đó.
3. Mục đích chính của cả hai
ví dụ nầy là giúp cho các môn đồ đầu tiên hiểu rằng Nước mà họ đã dâng mình phục
vụ đó sẽ không hề thất bại, song phồn vinh và trỗi hơn mọi điều mà họ có thể
suy tưởng.
IV. Mục đích và
sự giải thích các ví dụ (các câu 34-43).
A. Các ví dụ làm ứng nghiệm
lời tiên tri (các câu 34-35). Cách thức Chúa Jêsus khi nói ra các ví dụ
không phải là một lời giải thích đến sau mà là một phần của chương trình đời đời
của Đức Chúa Trời. Hàng trăm năm trước đó, Asáp đã viết ra những lời mà Chúa
Jêsus trưng dẫn ở đây trong Thi thiên 78.
B. Sự giải thích ví dụ nói về
lúa mì và cỏ lùng (các câu 36-43).
1. Khi Chúa Jêsus "để
cho chúng về", các môn đồ đã đến cùng Ngài "trong
nhà" rồi yêu cầu Ngài giải thích Ví dụ về cỏ lùng. Rõ ràng là họ hiểu
rõ một phần những gì Chúa Jêsus đã phán, song không hiểu hết. Họ vốn biết rõ rằng
"cỏ lùng" là những người
không tin Chúa và ví dụ đã nói về sự phán xét. Tuy nhiên, thắc mắc của họ giống
như thắc mắc của các tôi tớ, họ đã hỏi: "Vậy chủ có
muốn chúng tôi đi nhổ cỏ đó chăng?"
2. Chúa Jêsus "Con
Người" là người gieo giống trong ví dụ nầy.
3. "Ruộng
là thế gian". Một số học viên Kinh Thánh đã giải thích sai ruộng
khi đề cập tới dân sự của Đức Chúa Trời hay Hội Thánh nói chung. Ví dụ không
nói về người tin Chúa và người không tin Chúa trong nhà thờ. Ví dụ không nói tới
người thế gian trong Hội Thánh, mà nói tới Hội Thánh trong thế gian.
4. Trong ví dụ nầy, "giống
tốt là con cái nước thiên đàng". Chúng ta cần phải bắt rễ
và kết quả. "Cỏ lùng" là “con
cái quỉ dữ” không được cứu.
5. Giống như lúa mì và cỏ
lùng lớn lên bên cạnh nhau. Con cái Đức Chúa Trời và con cái “quỉ dữ” sống bên cạnh nhau.
Chúng ta thưởng thức cùng những phước hạnh, ăn cùng thứ đồ ăn, học cùng một trường,
làm việc chung một sở làm, và thậm chí đi chung những nhà thờ. Điều nầy kết
thúc cho tới lúc "mùa gặt".
6. “Con gặt", là thiên sứ báo
thù của Đức Chúa Trời sẽ thiêu đốt cỏ lùng trong “lửa”, lửa là biểu tượng
cho sự hành hình của địa ngục với "khóc lóc và
nghiến răng".
7. Lúa mì sẽ được nhập vào
kho (24.31). Ở đó, trong sự công bình đời đời của Đấng
Christ, chúng ta sẽ "chói rạng như mặt trời trong Nước của
cha [chúng ta] mình" (Đaniên 12.3).
8. Chúa Jêsus phán: "Ai
có tai, hãy nghe". Mỗi người đang trong tâm trạng bất an, sẽ hỏi: "Có
phải tôi là lúa mì hay tôi là cỏ lùng trông giống như lúa mì?”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét