MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Trở
về quê nhà
Mathiơ 20:17-34
1. Vào lúc nầy hay lúc
khác, hầu hết chúng ta đều tốn một thời gian dài trên một chuyến làm ăn, hay dự
một kỳ nghỉ, và rồi có một ước ao sâu sắc nhất muốn quay trở về quê nhà. Kèm
theo ao ước muốn quay trở lại quê nhà là sự ngao ngán cho chuyến đi. Đấy là những
gì tôi đã suy nghĩ trong một tiếng đồng hồ bay từ Dallas
đến Amarillo dường
như dài tới bốn giờ đồng hồ vậy. Tôi thường nghĩ rằng con đường dài nhứt trên
thế gian là U.S. 287 giữa Clarendon và Amarillo .
2. Khi chúng ta trở lại với
câu chuyện thuật về Chúa Jêsus trong sách Mathiơ, chúng ta thấy rằng Chúa Jêsus
đang trên đường hướng về quê nhà. Ngài đương ở bước chân cuối cùng của hành
trình trên đất với ánh mắt Ngài hướng về thiên đàng. Đời sống của chúng ta cũng
có thể sánh với một chuyến hành trình. Hướng trọn vẹn về quê nhà là được ở với
Chúa Jêsus.
3. Câu 17 nói Chúa Jêsus "đi lên
thành Jerusalem ". Ngài đã làm
tròn chức vụ của Ngài ở xứ Galilê rồi băng qua bờ phía Đông sông Giôđanh vào xứ
Bêrê (19:1). Ngài trên đường xuống thành Giêricô và bắt đầu đi ngược lên
thành Jerusalem .
Thành Giêricô thấp hơn mặt nước biển trung bình 1000 feet; thành Jerusalem cao hơn 2500
feet. Trong khoảng 14 dặm con đường nầy có dốc cao 3500 feet. Đúng ra Ngài đang
"đi
lên" suốt chuyến hành trình của Ngài về quê nhà. Lên tới Jerusalem , thì lên tới thiên đàng!
4. Khi chúng ta xem xét ba
sự cố trong phân nửa sau của chương 20, chúng ta có thể nhắm vào ba điểm ưu tiên một cho chuyến hành trình của
chúng ta về quê hương.
I. Chuẩn bị chịu
khổ (các câu 17-19).
A.
Chúa Jêsus dạn dĩ tiến thẳng vào sự thương khó của Ngài.
1. Có nhiều người đang trên đường thực hiện chuyến lữ hành hàng năm của
họ đến thành Jerusalem
để dự Lễ Vượt Qua. Từ đám đông, Chúa Jêsus "Ngài đem riêng theo mười
hai môn đồ". Ngài có chuyện muốn nói với họ theo cách riêng.
2. Trong các câu 18-19, Chúa Jêsus thổ lộ rất chi tiết mọi điều sẽ xảy
ra cho Ngài trong những ngày sắp tới. Ít nhất đây là lần thứ ba và có lẽ lần thứ
tư Ngài đã chia sẻ sứ điệp nầy (đối chiếu 16:21; 17:12,
22-23).
3. Khi nói cho họ biết những sự thử thách, các lần đánh đòn, sự chết và
sự sống lại hầu đến của Ngài, Ngài đã dùng lời nói thẳng thừng. Chẳng có một
hình bóng hay thí dụ chi hết. Ngài muốn họ nhìn biết chính xác mọi điều sắp sửa
xảy ra.
4. Những sự dạy rõ ràng và nhiều lần như thế nầy cho chúng ta thấy rằng
sự thương khó của Ngài không bắt lấy Chúa bằng sự ngạc nhiên. Chúng cũng chẳng
phải là tình cờ đâu. Ngài đã phán trong Giăng 4:34: "Đồ ăn của
ta tức là làm theo ý muốn của Đấng sai ta đến, và làm trọn công việc Ngài". Với hơi thở
cuối cùng của Ngài, từ trên thập tự giá Ngài đã kêu lên: "Mọi sự đã
được trọn" (Giăng 19:30).
5. Mặc dù Chúa Jêsus hiện đã giải thích sự thương khó của Ngài đến bốn lần,
các môn đồ vẫn chưa tin. Trong 16:22, Phierơ đã cố gắng "quở" Ngài. Họ cứ nắm
giữ theo truyền khẩu Do thái do con người lập nên cho rằng Đấng Mêsi sẽ đến như
một nhà chinh phục thay vì một Cứu Chúa chịu thương khó.
6. Đây không phải là phần việc dễ dàng cho Chúa Jêsus. Luca 9:51 chép:
"Khi gần đến kỳ Đức Chúa Jêsus được đem lên khỏi thế gian, Ngài quyết
định đi thành Giê-ru-sa-lem". Mác 10:32 chép về các môn đồ:
"…họ
thất kinh, và những người đi theo đều sợ hãi".
B.
Chúa Jêsus đã sửa soạn cho các môn đồ về sự thương khó của Ngài.
1. Ngài nói cho
họ biết Ngài sẽ bị "phản" hay bị nộp "cho các thầy
tế lễ cả và các thầy thông giáo". Hai nhóm người nầy tiêu
biểu cho dòng thầy tế lễ và tinh hoa của xứ Israel . Họ đã hình thành Toà Công
Luận Do thái, họ có quyền "luận giết" Ngài.
2. Rôma không cho phép các nước chư hầu thực thi án tử hình, vì vậy họ
chỉ có thể "luận giết Ngài" mà thôi. Sau đó họ sẽ phải
"nộp
Ngài cho dân Ngoại" để thực thi án tử hình.
3. Hãy lưu ý chi tiết đặc biệt mà Chúa Jêsus đã sử dụng. Họ sẽ "nhạo
báng, đánh đập" Ngài. Chúng ta sẽ thấy thể nào lời tiên tri nầy được
ứng nghiệm từng chữ một trong vài tuần nữa. Họ cũng sẽ "đóng đinh
Ngài trên cây thập tự”.
4. Chúa Jêsus vốn biết rõ Ngài sẽ bị sĩ nhục, bị bỏ rơi, gánh chịu nỗi đau
đớn không ai có thể nghĩ tới và quan trọng nhất, Ngài gánh lấy tội lỗi của thế
gian. Tuy nhiên, Ngài vẫn tiếp tục bước tới trước, qua sự chịu khổ đến với sự
vinh hiển của "ngày thứ ba" khi Ngài sẽ sống lại.
5. Hêbơrơ 12:2 dạy chúng ta phải "nhìn xem Đức Chúa
Jêsus, là cội rễ và cuối cùng của đức tin, tức là Đấng vì sự vui mừng đã đặt trước
mặt mình, chịu lấy thập tự giá, khinh điều sỉ nhục, và hiện nay ngồi bên hữu
ngai Đức Chúa Trời".
C.
Chịu khổ là điều không thể tránh được đối với mọi tín đồ.
1. Hết thảy chúng ta đang ở trên hai bàn chân khác của chuyến hành trình
trong đời sống của chúng ta. Chúng ta là thanh niên, là trung niên, là lão
niên.
2. Chịu khổ luôn luôn là một phần chuyến hành trình trong cuộc sống. Hết
lúc nầy sang lúc khác, hết thảy chúng ta đều sẽ chịu khổ từ tổn thương đến tật
bệnh. Hết thảy chúng ta đang gánh chịu nỗi đau khổ về tình cảm từ những cảnh ngộ
như sự chết của một người thân hay từ chỗ bị mất công ăn việc làm. Tuy nhiên, Đức
Chúa Trời đang sử dụng những nỗi khổ của đời nầy để làm vững mạnh chúng ta. II
Côrinhtô 4:17 chép: "Vì sự hoạn nạn nhẹ và tạm của chúng ta sanh
cho chúng ta sự vinh hiển cao trọng đời đời, vô lượng, vô biên".
3. Chịu khổ vì Đấng Christ và Tin lành là một đặc ân rất lớn. Chúa Jêsus
đã phán trong Mathiơ 5:10: "Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công
bình, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy!"
4. Philíp 1:29 chép: "Ngài nhân Đấng
Christ, ban ơn cho anh em, không những tin Đấng Christ mà thôi, lại phải chịu
khổ vì Ngài nữa".
5. Phaolô đã cầu nguyện trong Philíp 3:10: "cho đến nỗi
tôi được biết Ngài, và quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương
khó của Ngài, làm cho tôi nên giống như Ngài trong sự chết Ngài".
6. Mặc dù có nhiều, nhiều phân đoạn trong Tân ước nói về thái độ của người
tin Chúa đối với sự chịu khổ, có lẽ câu Kinh Thánh yên ủi nhất về sự chịu khổ
là Rôma 8:18: "Vả, tôi tưởng rằng những sự đau đớn bây giờ chẳng đáng so sánh với
sự vinh hiển hầu đến, là sự sẽ được bày ra trong chúng ta".
7. Có người nói:"Một cái bình bằng đất sét dưới ánh mặt trời
luôn luôn là cái bình bằng đất sét. Nó luôn luôn nếm trải hơi nóng của lò lửa để
trở thành đồ sứ".
II.
Theo đuổi sự hầu việc (các câu 20-28).
A.
Một đòi hỏi phục vụ cho cái tôi (các
câu 20-23).
1. Trong khi trên đường về quê nhà, đang khi "đi lên thành Jerusalem ", "mẹ
của các con trai Xêbêđê" (Giacơ và Giăng) đến gần Chúa
Jêsus. Bà "lạy Ngài" rất tôn kính.
2. Trong sách Mác, Bà Xêbêđê không được nhắc tới. Chúng ta giả định ba
người họ đã ngấm ngầm dự định mưu chước nầy. Bà đến đặng "hỏi một
chuyện". Trong Mác 10:35, họ nói: "Lạy thầy, chúng tôi
muốn thầy làm thành điều chúng tôi sẽ xin". Giống như trẻ con lo sợ lời
cầu xin của chúng bị từ chối, họ đã nhờ mẹ của mình đến xin một ân huệ từ Chúa
Jêsus.
3. Chúa Jêsus đã hỏi: "Ngươi muốn chi?" Bà nói chẳng
chút bối rối: "Xin cho hai con trai tôi đây ngồi một đứa
bên hữu Ngài, một đứa bên tả, ở trong nước Ngài". Thật là kiêu
ngạo!
4. Thật trẻ con làm sao! Hai "con trai của sấm
sét" đã dạn dĩ không chút bối rối cầu xin một sự đề bạt như thế. Thật là khó
tưởng tượng vị sứ đồ cao tuổi đã viết ra thư tín Giăng I, II, III, lại có thể
núp ở đàng sau chiếc tạp dề của mẹ mình với một thái độ tự phụ như thế. Họ sống
giống như hạng người Pharisi: "…ưa ngồi đầu trong đám tiệc, thích ngôi
cao nhất trong nhà hội" (Mathiơ 23.6).
5. Chúa Jêsus bảo họ: "Các ngươi không hiểu điều của mình xin". Ngài đã hỏi họ,
không biết họ có dám uống "chén mà ta hầu uống" không!?! Uống
như vậy có nghĩa là "uống cạn". Cái "chén" là cái chén thương
khó mà Ngài mới vừa mô tả. Ngài sẽ bị nhúng vào sự thương khó vì ích cho chúng
ta!
6. Thái độ kiêu ngạo của họ vẫn không giảm bớt, họ đáp: "Chúng
tôi uống được". Chúa Jêsus quyết chắc với họ là thật họ sẽ "uống
chén ta". Trong Công vụ Các Sứ Đồ 12:2 Giacơ là vị sứ đồ đầu
tiên trở thành một người tuận đạo bởi gươm. Cuộc sống chịu khổ lâu dài của Giăng
sẽ kết thúc trong một cuộc lưu đày ở đảo
Bátmô (Khải huyền 1:9).
7. Tuy nhiên, Chúa Jêsus đã khẳng định rằng hai chỗ vinh dự bên cạnh
Ngài không thuộc quyền ban hiến của Ngài, mà đúng hơn, "ấy là cho những
người nào mà Cha ta đã sửa soạn cho". Những địa vị cao quí đó sẽ
không được ưng ban trên nền tảng được ưu đãi, mà là do quyền tể trị của Đức
Chúa Cha.
8. Thật là dễ hiểu, "mười" người kia đã "giận" hay căm phẫn
Giacơ và Giăng.
B.
Một nguyên tắc tự nguyện (các câu 24-28).
1. Chúa Jêsus đã phán rằng "các vua dân Ngoại thì ép dân phải phục
mình". Họ ra lịnh hay "cai trị" trên dân chúng. Các môn đồ
vốn quen thuộc với những nhà cầm quyền bạo ngược rồi.
2. Ngài phán: "còn các quan lớn thì lấy quyền thế mà trị
dân". Sát nghĩa câu nầy có nghĩa "là kẻ bạo ngược".
3. Trong hệ thống thế gian, người ta bò lết, tranh đấu và vận động đường
lối của họ để lên đến đỉnh thang danh vọng. Rồi ở đó, họ lo bảo hộ địa vị cao của
họ theo cách xấu xa chống lại tất cả những người muốn lên tới đó. Tuy nhiên,
Chúa Jêsus phán: "Trong các ngươi thì không như vậy". Không có một
chỗ nào cho những kẻ độc tài và bán chác quyền lực trong Hội Thánh.
4. Phierơ đã cảnh cáo các vị Mục sư trong I Phierơ 5:3: "…chẳng phải
quản trị phần trách nhiệm chia cho anh em, song để làm gương tốt cho cả bầy". Ở trong III Giăng
9, chính Giăng đã viết về: "… Đi-ô-trép là kẻ ưng đứng đầu Hội thánh
không muốn tiếp rước chúng ta".
5. Kế đó Chúa Jêsus ban ra nguyên tắc cao cả của vương quốc nói tới sự
cao trọng: "kẻ nào muốn làm lớn, thì sẽ làm đầy tớ các ngươi". Nếu quí vị muốn
làm lớn, hãy lo phục vụ đi. Nếu quí vị muốn sống chín chắn, hãy hành động trong
tình yêu thương.
6. Chúa Jêsus đưa ra lẽ đạo trong thí dụ mới nhất của Ngài (các câu
1-16) khi Ngài nói thêm: "còn kẻ nào muốn làm đầu, thì sẽ làm
tôi mọi các ngươi". Tại sao vậy? Vì "kẻ rốt sẽ nên đầu và
người đầu sẽ nên rốt".
Vị cố vấn thân cận nhứt của Franklin Roosevelt trong suốt thời gian làm
Tổng thống của ông là một người có tên là Harry Hopkins. Trong suốt Đệ II Thế
Chiến, Hopkins
chẳng giữ một địa vị then chốt nào và sự gần gũi của ông với Tổng thống đã khiến
cho nhiều người xem ông là một nhân vật hắc ám, chỉ mang lại tai hoạ. Một nhà
chính trị đối lập từng thắc mắc: "Sao ông cứ giữ Hopkins gần gũi ông như thế? Ông chắc biết rõ
là người ta chẳng tin cậy ông ta và bực tức về ảnh hưởng của ông ta". Roosevelt đáp:
"Một ngày kia có thể ông sẽ ngồi ở đây, ở chỗ mà hiện nay tôi là Tổng
thống của nước Mỹ. Rồi khi ông ngồi ở đó, ông sẽ nhìn qua cánh cửa bên kia và
biết ngay mọi người đi ngang qua nó chẳng muốn một chút gì về ông cả. Ông sẽ học
biết đây là một công việc đơn độc duy nhứt, và ông sẽ khám phá ra nhu cần phải
có một người như Harry Hopkins, ông ta chẳng xin xỏ một thứ gì ngoại trừ được
phục vụ cho ông mà thôi". Winston Churchill đã đánh
giá Hopkins là
một trong nửa tá những con người có quyền lực nhất trên thế giới vào đầu thập
niên 1940. Nguồn gốc uy lực của Hopkins
là thái độ bằng lòng phục vụ của ông.
7. Kế đó Chúa Jêsus đã đưa ra câu nói chủ định, động lực chính của Ngài.
Ngài phán: "Ấy vậy, Con người đã đến, không phải để người ta hầu việc
mình, song để mình hầu việc người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc nhiều
người".
Trong cuộc Cách mạng của người Mỹ, một người ăn mặc theo dân sự lái xe
ngang qua một tốp lính đang sửa chửa lại chiếc hàng rào phòng thủ kia. Cấp chỉ
huy của họ đang hô to những lịnh lạc, nhưng chẳng làm một việc gì để giúp đỡ họ
cả. Khi người nầy hỏi lý do tại sao, ông ta trịnh trọng nói: "Thưa ông,
tôi là cai đội ạ!" Người khách lạ kia bèn xin lỗi, xuống xe, rồi tiến
đến phụ giúp mấy người lính đã kiệt sức kia. Công việc đã làm xong, ông bèn trở
lại với viên cai đội rồi nói: "Ông cai đội ơi, lần tới ông có một công việc
y như thế nầy và không đủ người để làm, hãy đến gặp vị Tổng tư lệnh của ông, và
tôi sẽ đến mà giúp đỡ cho ông đấy nhé". Đó là George Washington!
8. Đừng quên cụm từ "ấy vậy" ở phần đầu câu 28. Chúa
Jêsus đã lìa bỏ sự vinh hiển của thiên đàng để "hầu việc" và trả "giá chuộc" để mua lấy
chúng ta ra khỏi khu chợ nô lệ cho tội lỗi. Toàn bộ chuyến hành trình của Chúa
Jêsus là một chuyến đi truyền giáo. Ngài đã trở nên tôi tớ. Chúng ta cần phải
làm "giống Ngài như vậy". Hầu việc phải trở thành điểm
ưu tiên một của chúng ta.
9. Có phải quí vị đang tìm kiếm những phương thức để hầu việc hay có phải
ao ước của quí vị là được người ta phục vụ cho? Có phải quí vị đang hành động
trong sự kiêu ngạo giống như Giacơ và Giăng hay phục vụ với thái độ khiêm nhường
giống như Chúa Jêsus?
III.
Cung ứng cái thấy về mặt thuộc linh (các
câu 29-34).
A.
Chúa Jêsus dừng lại để mở mắt cho người mù thuộc thể.
1. Chúa Jêsus, các môn đồ và đoàn dân đông đang di chuyển ngang qua “thành Giêricô”. Thành phố cổ
xưa nầy vẫn còn là một món trang sức đẹp đẽ trong vùng đồng vắng trơ trọi. Nó
có một ốc đảo đầy nước tươi mát và rừng cây xinh đẹp ai cũng biết là "thành cây
chà là".
2. Bên vệ đường là "hai người mù". Những gã ăn
mày mù loà là bối cảnh rất thông thường đã lôi cuốn chút ít sự chú ý. Tuy
nhiên, hai gã nầy "kêu lên" với Chúa Jêsus
theo cách riêng.
3. Mác và Luca chỉ nhắm vào một gã mù có tên là Batimê. Có lẽ ông ta là
phát ngôn viên cho cặp người mù nầy. Họ nói: "Lạy Chúa, con cháu
vua Đa-vít, xin thương xót chúng tôi!" "Lạy Chúa"
là cụm từ rất phổ thông cho bất kỳ một người đặc biệt nào. Tuy nhiên, "Con cháu
Vua David" là một tước hiệu nói tới Đấng Mêsi. Hai người mù nầy
đã công nhận Chúa Jêsus là Đấng chịu xức dầu!
4. "Kêu lên" có ý nói tới một tiếng kêu la đau khổ thường
mô tả những lời rủa sả của kẻ mất trí và tiếng kêu la của người đờn bà khi sanh
con. Đoàn dân đông lấy làm mệt vì cớ họ và "rầy hai người ấy,
biểu nín đi". Hai người mù từ chối không chịu im lặng và đã "kêu lớn
hơn nữa".
5. Thậm chí hôm nay, những ai có vật chất và thuộc linh nhiều, họ vừa dửng
dưng và cố chấp đối với những tiếng kêu la của những kẻ khó khăn về vật chất và
về thuộc linh.
6. Chúa Jêsus "dừng lại" và "gọi" họ đến. Ngài đã
nghe tiếng kêu la của họ lần đầu tiên, nhưng đã đứng đợi trước khi đáp ứng. Mác
nói Batimê đã phấn khởi lắm, ông ta liền "bỏ áo ngoài" (10.50).
Chẳng có một thứ gì có thể ngăn trở ông ta!
7. Khi Chúa Jêsus hỏi họ muốn Ngài làm chi cho họ, họ đáp "xin cho
mắt chúng tôi được sáng".
8. Trong sự “thương xót” cả thể của Ngài, Ngài đã "rờ đến
mắt họ" và "tức thì hai người thấy được”.
B.
Tin lành mở mắt kẻ bị mù về mặt thuộc linh.
1. Tình trạng mù thuộc linh, bị mất mát còn tệ hại hơn tình trạng bị mù
về mặt thuộc thể. Chúa Jêsus đã phán trong Mathiơ 6:22-23: "Con mắt là
đèn của thân thể. Nếu mắt ngươi sáng sủa thì cả thân thể ngươi sẽ được sáng
láng; nhưng nếu mắt ngươi xấu, thì cả thân thể sẽ tối tăm. Vậy, nếu sự sáng
láng trong ngươi chỉ là tối tăm, thì sự tối tăm nầy sẽ lớn biết là dường
bao!"
2. II Côrinhtô 4:4 nói về người không tin Chúa: "chúa đời nầy
đã làm mù lòng họ, hầu cho họ không trông thấy sự vinh hiển chói lói của Tin
Lành Đấng Christ, là ảnh tượng của Đức Chúa Trời".
3. Họ đã nhận lãnh cả hai cái thấy về thuộc thể lẫn thuộc linh vì "họ đi
theo Ngài". Chúng ta không thể cung ứng cho cái thấy thuộc thể,
nhưng chúng ta có thể được Chúa đại dụng để truyền đạt cái thấy về mặt thuộc
linh.
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét