Thứ Năm, 23 tháng 1, 2014

Bài 76: Mathiơ 21:1-17: "NHỮNG DẤU HIỆU CỦA SỰ CHỐI BỎ"


MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Những dấu hiệu của sự chối bỏ
Mathiơ 21:1-17
1. Trong phần nghiên cứu của chúng ta về sách Mathiơ, chúng ta đang chuyển nhanh qua các biến cố cuối cùng của chức vụ Chúa Jêsus. Giờ đây Ngài đã đến thành Jerusalem lần cuối cùng. Sự chết, sự chôn, sự sống lại của Ngài không kéo dài hơn một tuần lễ. "Chiên Con của Đức Chúa Trời" sắp sửa bị giết vì tội chúng ta.
2. Trong tiểu đoạn nầy, Mathiơ cho chúng ta thấy thể nào Israel trong vai trò một quốc gia đã chối bỏ Đấng Mêsi của họ. Ngài cho chúng ta thấy ba dấu hiệu công khai của sự họ chối bỏ. Lần tới chúng ta sẽ nghiên cứu ba thí dụ phác hoạ ra sự chối bỏ. Chúng ta hãy xem xét PHẦN GIỚI THIỆU Đấng Mêsi, sự LÀM SẠCH đền thờ và LỜI TIÊN TRI nói tới một cây vả khô.
I. Phần giới thiệu Đấng Mêsi (các câu 1-11).
Phân đoạn nầy theo truyền khẩu mà ai cũng biết rõ, là Lần Đắc Thắng Vào Thành hay Lễ Đăng Quang của Đấng Christ. Phân đoạn nầy dạy chúng ta biết trong một thời gian ngắn, cư dân thành Jerusalem đã tiếp đón Chúa Jêsus là Đấng Mêsi của họ. Khi Victoria (Nữ hoàng Anh quốc) đăng quang lên ngôi vào năm 1838, bà đã đội một chiếc vương miện được kết với hồng ngọc và ngọc bích thật to, bao quanh là 309 cara kim cương. Cây trượng vương giả của bà được đính với viên kim cương cắt ra từ Ngôi Sao Châu Phi cân nặng 516½ cara. Lễ đăng quang của Chúa Jêsus thật là đơn sơ, nhưng rất là quan trọng.
A. Phần chuẩn bị đắc thắng vào thành (các câu 1-3).
1. Sau khi chữa lành cho "hai người mù" ở thành Giêricô, Chúa Jêsus trực chỉ lên đường và "gần đến thành Jerusalem". Nhiều đoàn dân đông đã kéo theo Ngài trên con đường về dự kỷ niệm Lễ Vượt Qua của họ. Họ không hiểu là họ đã cùng đi chung đường với Chiên Con Lễ Vượt Qua của Đức Chúa Trời.
2. Mathiơ ghi lại rằng Ngài đã dừng lại ở thành "Bê-pha-giê" gần "Núi Ôlive". Giăng cung ứng cho chúng ta thêm chi tiết. Bêthany ở gần đó và tại nơi ấy Chúa Jêsus đã sử dụng thì giờ với Mary, Mathê và Laxarơ, là người mà Ngài mới vừa làm cho sống lại từ kẻ chết. Mary đã xức cho Ngài bằng dầu đắt tiền và có nhiều người kéo tới để nhìn xem Ngài và Laxarơ (Giăng 12:9).
3. Từ Bê-pha-giê, Chúa Jêsus chuẩn bị vào Thành Thánh qua Cửa phía Đông, nhưng trước tiên Ngài đã sai "hai môn đồ" làm một việc thật đặc biệt.
4. Chúa Jêsus đã cố ý đưa các biến cố nầy vào bối cảnh khi ấy. Ngài không lợi dụng cơ hội theo đám dân đông lướt qua nơi đó. Mặt Ngài hướng vào ý chỉ đã định trước của Đức Chúa Cha.
5. Hai người được sai đi vào "làng ở trước mặt", ở đó họ sẽ thấy "con lừa cái… với một con lừa con" bị cột. Con lừa con sẽ cùng đến với mẹ nó. Nếu có ai hỏi, họ chỉ đáp: "Chúa cần dùng hai con lừa đó".
6. Mác ghi lại rằng có ai đó đã hỏi và Luca xác nhận họ là chủ lừa. Rõ ràng họ là những người tin theo Chúa Jêsus, họ sẵn sàng nhất trí với bất cứ điều chi Ngài cần tới. Cả Mác và Luca đều nói rằng lừa con chưa có ai cỡi.
B. Lời tiên tri nói về sự đắc thắng vào thành (các câu 4-5).
1. Chúa Jêsus phán rằng con lừa được cần tới "để cho ứng nghiệm lời của đấng tiên tri". Vị tiên tri đặc biệt ấy là Xachari, ông đã nói trước biến cố đó 500 năm trước (Xachari 9.9).
2. Núi Siôn là đỉnh cao nhất tại Jerusalem. "Con gái Siôn" có ý nói tới cư dân của thành phố.
3. Quí vị sẽ nghĩ vua của Israel sẽ vào thành trên một con ngựa bạch, nhưng vị tiên tri đã nói trước Ngài sẽ đến với một tư thế "nhu mì" đang cỡi "một con thú hay chở nặng" (theo bản Kinh Thánh NASV).
4. Chúa Jêsus không đến như một nhà chinh phục đầy quyền lực, mà đến như một Đấng Cứu Thế nhu mì, không phải một vị Tướng lãnh mà là Chiên Con làm sinh tế. Ngài đã đến trong chỗ nghèo khó, chớ không phải giàu có, nhu mì, chớ không phải huy hoàng, không phải đến để huỷ diệt kẻ thù của Israel mà để cứu vớt nhân loại. Lễ đăng quang là thời điểm bị làm nhục, chớ không phải sự vinh hiển.
5. Thời điểm của sự vinh hiển chưa đến. Khải huyền 19 sau cùng đã phác hoạ Chúa Jêsus đang cỡi con ngựa bạch. Khi Ngài đến trong ngày ấy, chúng ta sẽ ở với Ngài!
C. Tiến trình của sự đắc thắng vào thành (các câu 6-8).
1. Các môn đồ không có một cái yên hay cái khăn lót nào hết, vì vậy họ "trải áo mình" hay áo choàng trên lưng cả hai con lừa, vì có lẽ họ không dám chắc Ngài sẽ cỡi trên con nào. Với sự hạ mình, Chúa Jêsus đã chọn "lừa con" chưa có ai cỡi.
2. "Đám dân đông" vây chung quanh Chúa Jêsus, họ bắt đầu "trải áo mình trên đường". Đây là một thông tục xưa lắm rồi (đối chiếu II Các Vua 9.13) làm biểu tượng cho sự kính trọng và đầu phục dành cho một vì vua. Thông tục ấy nói: "Xin Ngài cứ bước đi trên chúng tôi".
3. Nhiều người khác "chặt nhánh" từ "cây kè" (Giăng 12.13)"rải ra trên đường". Những nhánh cây kè là một dấu hiệu của sự vui mừng.
4. Khải huyền 7:9 phác hoạ "vô số người, không ai đếm được, bởi mọi nước, mọi chi phái, mọi dân tộc, mọi tiếng mà ra; chúng đứng trước ngôi và trước Chiên Con, mặc áo dài trắng, tay cầm nhành chà là".
D. Tiếng ngợi khen của sự đắc thắng vào thành (câu 9).
1. Có người "đi trước" Chúa Jêsus và nhiều người khác "theo sau". Ngài bị vây lấy trong một đoàn dân đông có thể đếm được vài trăm ngàn người.
2. Họ đã hô lên "Hôsana", một từ ngữ Hy bá lai có nghĩa là "cứu ngay bây giờ". Họ không muốn Chúa Jêsus cứu linh hồn họ ra khỏi tội lỗi, mà chỉ muốn Chúa Jêsus cứu xứ sở họ ra khỏi tay của người La mã mà thôi.
3. Họ gọi Ngài là "Con vua David" Đấng Phước Hạnh, Ngài "đã nhân danh Chúa mà đến", một tước hiệu của Đấng Mêsi. Họ đã trưng dẫn các Thi thiên (113-118) và đặc biệt Thi thiên nói về Đấng Chinh Phục (118).
4. Đúng ra họ đang nói: "Hãy cứu chúng tôi ngay bây giờ đi, ôi hỡi Đấng Mêsi cao cả". Mặc dù họ đang thốt ra lẽ thật và làm ứng nghiệm Kinh Thánh, họ là một đoàn đông nguội lạnh, phần lớn chẳng có một ý niệm gì về việc họ đang làm.
E. Tính phức tạp của sự đắc thắng vào thành (các câu 10-11).
1. Sau sự cố trọng đại nầy "cả thành đều xôn xao" hay rối lên. Mặc dù họ đã ngợi khen Ngài là Đấng Mêsi "Con vua David", bây giờ họ lại tự hỏi mình: "Người nầy là ai?" Họ không còn gọi Ngài là Đấng Mêsi của họ nữa mà chỉ nói tới Ngài là: "tiên tri ở thành Naxarét".
2. Vài ngày sau đó, cũng chính số người nầy đã nói với Philát trong Luca 19:14: "Chúng tôi không muốn người nầy cai trị chúng tôi!" Họ muốn Đấng Mêsi theo đúng các hạn định của họ, chớ không phải theo các giới hạn của Đức Chúa Trời.
3. Có nhiều người ngày nay muốn Chúa Jêsus làm ứng nghiệm mọi ước ao ích kỷ của họ. Tuy nhiên, giống như đoàn dân đông lúc Chúa đắc thắng vào thành, họ đã xây đi và chối bỏ Ngài khi Ngài không làm theo mọi điều mà họ đã trông mong.
4. Đắc thắng vào thành là dấu hiệu đầu tiên cho thấy dân Israel đã chối bỏ Cứu Chúa của chính họ.
II. Sự thanh tẩy Đền Thờ (các câu 12-16).
A. Chúa Jêsus dọn dẹp đền thờ (câu 12).
1. Các sách Tin lành khác cho chúng ta biết rằng Chúa Jêsus quay trở về lại Bêthany để qua đêm nhưng đã trực tiếp đến "đền thờ của Đức Chúa Trời" qua ngày hôm sau. Thành Jerusalem đầy ắp khách hành hương người Do thái và không nghi ngờ chi nữa nơi ấy chật ních cả người.
2. Có nhiều sự sai trật trong xứ Israel nhưng theo Chúa Jêsus sai trật lớn nhất tựu trung vào sự thờ phượng của họ. Thờ phượng luôn luôn là trọng điểm đối với Đức Chúa Trời. Nếu sự thờ phượng của chúng ta là sai, không một điều chi khác là đúng hết.
3. Chúa Jêsus đã bắt đầu chức vụ công khai của Ngài vào dịp kỷ niệm Lễ Vượt Qua cùng một cách thức Ngài đã kết thúc chức vụ đó. Chúng ta trở lại với Giăng 2:13-17. Trước đây Ngài đã đánh đuổi những kẻ "buôn bán" bằng cách bện một "cái roi". Còn bây giờ, ba năm sau khu chợ ấy có lẽ còn tệ hại hơn.
Khu vực Chúa Jêsus đến, được gọi là "hành lang dân Ngoại" bất cứ ai cũng có thể vào đấy. Các thầy tế lễ dưới quyền Anne đã tạo ra một công việc sinh lợi ở đây. Bất cứ một con thú nào được dâng lên như một sinh tế đều phải được dòng thầy tế lễ bằng lòng. Họ chỉ bằng lòng các con sinh vật mà họ rao bán. Edersheim nói, giá cả thường cao gấp 10 lần giá thị trường. Người ta không thể dâng lễ bằng bất cứ loại tiền tệ nào. Tiền bạc cần phải đem đổi bằng tiền của đền thờ. Vì lẽ đó "những người đổi bạc" chủ yếu đổi tiền mặt của khách hành hương với mức thù lao 25%. Cho nên, chẳng có gì phải ngạc nhiên khi thấy Chúa Jêsus đề cập tới chỗ nầy trong câu 13 là "ổ trộm cướp".
4. Không ngần ngại chi hết, Chúa Jêsus "đuổi hết kẻ bán người mua ở đó", Ngài "đổ bàn của người đổi bạc, và ghế của người bán bò câu". Chỗ nầy thành ra nơi náo loạn! Thú vật bỏ chạy, chim bồ câu bay đi, những đồng tiền lăn dài trên vĩa hè!
5. Bất cứ người nào khác cả gan dám làm một việc như thế có lẽ sẽ bị lính canh đền thờ giết chết rồi, nhưng bấy giờ chưa phải là thời điểm để Chúa Jêsus chịu chết. Giống như bầy sư tử không thể đụng đến Đaniên, chẳng ai động đến Chúa Jêsus cho tới khi Đức Chúa Cha cho phép điều đó.
6. Các thầy tế lễ có lẽ cũng lấy làm sợ hãi đám dân đông, họ mới vừa tôn Chúa Jêsus là Đấng Mêsi.
7. Mác còn nói thêm: "Ngài cấm không cho ai được đem đồ gì đi ngang qua đền thờ" (Mác 11:16). Đây không phải là Đấng Chăn Chiên nhu mì, mà là một vì Vua mạnh sức. Sự hiện diện của Ngài khiến cho người ta phải phục theo đòi hỏi của Ngài.
B. Chúa Jêsus xét đoán những kẻ giả hình (câu 13).
1. Ở giữa cảnh hỗn độn ấy, Chúa chúng ta dường như đã hô to lên: "Nhà ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện; nhưng các ngươi thì làm cho nhà ấy thành ra ổ trộm cướp".
2. Mác nói thêm cho đủ câu nói ở Êsai 56:7: "của muôn dân" (11:17). "Hành lang dân Ngoại" phải là một nơi mà bất kỳ người nào cũng phải học biết về Đức Chúa Trời chơn thật duy nhất. Thế mà các thầy tế lễ, các cấp lãnh đạo tôn giáo đã biến chỗ đó thành một ổ trộm cướp.
C. Chúa Jêsus động lòng thương xót kẻ khốn cùng (câu 14).
1. Mặc dù những tay buôn bán tham lam đã bỏ chạy và những kẻ đã sử dụng địa điểm nầy như một liệu pháp trao đổi hàng hoá nhanh nhất đã tìm con đường khác, người khốn cùng đã đến với Chúa Jêsus.
2. "Bấy giờ, những kẻ mù và què đến cùng Ngài trong đền thờ, thì Ngài chữa cho họ được lành". Đức Chúa Trời giáng cơn thạnh nộ và sự phán xét trên những kẻ xem thường lẽ thật của Ngài, nhưng đổ ra sự thương xót và chữa lành cho những ai bởi đức tin thành thật tìm kiếm Ngài.
D. Chúa Jêsus đối mặt với các cấp lãnh đạo (các câu 15-16).
1. "Các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo" không phải mù cũng không bị què. Họ đã "thấy sự lạ Ngài đã làm" trong hành lang và đã đi ra "khỏi thành" chỉ nghe thấy những tiếng trẻ con vui mừng ca hát: "Hôsana Con vua David!"
2. Mathiơ  nói thêm: "Họ tức giận" lắm. Họ đã nổi nóng với giận dữ. Họ đã khịt mũi và đe doạ, vì họ chẳng làm được một việc gì khác. Họ lấy làm lạ nơi quyền phép chữa lành của Ngài, đã sững sờ bởi khả năng Ngài truyền lệnh cho đám dân đông và đã giận dữ vì Ngài bất chấp họ.
3. Sau cùng, họ đến gần Chúa Jêsus trực tiếp hỏi: "Thầy có nghe điều những đứa trẻ nầy nói không?" Họ đang thắc mắc: "Bộ Thầy không nghe chúng đang xưng Thầy là Đấng Mêsi sao? Sao Thầy không ngăn chúng lại?"
4. Chúa Jêsus phán: "". Tất nhiên là Ngài đã nghe chúng nói. Bài ca của chúng là âm nhạc trong hai lỗ tai của Ngài. Ngài hỏi lại số người học vấn cao nầy: "Vậy chớ các ngươi chưa hề đọc lời nầy…" rồi trưng dẫn Thi thiên 8:2: "Chúa đã được ngợi khen bởi miệng con trẻ và con đang bú, hay sao?"
5. Nếu như dân Israel không ngợi khen Chúa Jêsus, con cái của họ sẽ ngợi khen. Ngài sẽ được khen ngợi. Luca 19.40 ghi lại rằng Chúa Jêsus đã phán trong lúc đắc thắng vào thành: "Ta phán cùng các ngươi, nếu họ nín lặng thì đá sẽ kêu lên".
III. Lời tiên tri nói về cây vả (các câu 17-22).
A. Vì cớ không kết quả cây vả đã bị rủa sả (các câu 17-18).
1. Các cấp lãnh đạo tôn giáo không thể làm chi được Chúa Jêsus tại điểm nầy và vì vậy "Ngài bỏ họ" mà quay trở lại "làng Bêthany", Ngài "nghỉ đêm" ở đó.
2. Vì hàng chục ngàn khác hành hương đầy ắp trong thành Jerusalem suốt kỳ lễ Vượt Qua, người ta thường ở lại trong các thị trấn chung quanh giống như làng "Bêthany".
3. Đến "sáng mai", Chúa Jêsus cùng với các môn đồ "trở lại thành". Có lẽ Ngài đã bỏ ăn sáng để cầu nguyện, nhưng Ngài đã "đói".
4. Mặc dù Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời trước các sự cố sắp sửa diễn ra, Chúa Jêsus là con người kinh nghiệm đầy đủ mọi biến chứng thông thường của con người. Ngài cảm thấy "đói" giống như chúng ta cảm thấy đói vậy.
5. Khi đi tới phía trước, "ở bên đường", Ngài "thấy một cây vả". Cây vả rất thường có ở đó và nó có bóng mát và trái ngon. Tôi nhớ tới mấy cây vả trong vườn của bà nội tôi. Trong xã hội thời ấy, một "cây vả" và một dấu hiệu cho thấy sự giàu có và ơn phước của Đức Chúa Trời (đối chiếu Xachari 3.9-10).
6. Khi Chúa Jêsus đến bên cây vả, Ngài "chỉ thấy những lá thôi". Trông cây ấy rất đẹp và hứa hẹn, nhưng nó chẳng có lợi ích gì hết.
7. Chúa Jêsus đã phán với cây ấy, Ngài nói: "Mầy chẳng khi nào sanh ra trái nữa!" Với lời rủa sả thiêng liêng đó "cây vả tức thì khô đi". Như chúng ta sẽ thấy, đây là một dấu hiệu nói tới mọi điều sẽ xảy ra cho dân Israel.
B. sự bất trung Israel đã bị chối bỏ (các câu 19-22).
1. Chúa Jêsus đưa ra một minh hoạ rõ nét về Israel. Họ trông rất ấn tượng với mọi nổ lực tôn giáo của họ. Có nhiều lá rất đẹp. Tuy nhiên, chẳng có một trái thuộc linh chơn thật nào và đây là bằng chứng họ chối bỏ Đấng Mêsi. Giống như "cây vả" Israel sẽ bị khô héo đi.
2. Quí vị có bao giờ nhìn thấy nguyên tắc đó tỏ ra ở một Hội Thánh địa phương chưa? Tôi đã trông thấy rồi. Tôi đã nhìn thấy những nhà thờ làm ra vẻ sống động về mặt thuộc linh lắm, trông họ bề ngoài rất ngon lành, nhưng chẳng có một sự đầu phục nào đối với Đấng Christ hết. Tôi cũng đã trông thấy họ khô héo nữa. Chúng ta hãy đầu phục, đừng bao giờ để cho việc ấy xảy ra ở đây!
3. Cây vả đã làm cho các môn đồ phải bối rối. Họ "lấy làm kỳ" và hỏi Chúa Jêsus: "Cớ sao trong giây phút mà cây vả liền khô đi vậy?" Mác cho chúng ta biết họ đã hỏi câu nầy vào sáng hôm sau. Họ đã nhìn thấy cây vả từ từ héo khô đi giống như chết nhiều tháng rồi vậy, nhưng không giống như cây vả nầy.
4. Trong câu 21, khi Chúa Jêsus nói tới thứ "đức tin" có thể dời đi một ngọn "núi" rõ ràng Ngài đã nói theo nghĩa bóng. Giống như thí dụ nói tới hột cải, ngay cả một đức tin nhỏ nơi Đức Chúa Trời có thể khiến những việc lớn xảy ra.
5. Chúa Jêsus phán: "Trong khi cầu nguyện, các ngươi lấy đức tin xin việc gì bất kỳ, thảy đều được cả". Cầu nguyện là chìa khoá. Chúa Jêsus mới vừa phán: "Nhà ta được gọi là nhà cầu nguyện". Khi chúng ta cầu xin "theo ý của Ngài" chúng ta biết rằng mọi lời cầu nguyện của chúng ta đều được nghe và được đáp trả (I Giăng 5:14-15).
6. Không giống như dân Israel, chúng ta đừng ráng sức tỏ vẻ thuộc linh, mà chúng ta hãy luyện tập đức tin qua sự cầu nguyện và sinh ra bông trái chân thật, chớ không phải chỉ có lá tôn giáo thôi.

***


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét