MATHIƠ
– VUA CÁC VUA
Cho
5000 người ăn
Mathiơ 14:14-21
1. Việc cho 5000
người ăn là một trong các phép lạ quan trọng nhất của Chúa Jêsus. Chúng ta biết
như vậy vì đây là phép lạ duy nhất được nhắc lại trong bốn sách Tin lành. Phép
lạ nầy được đặt ở cao điểm khi sự được lòng người của Ngài bị thay thế bằng sự
chối bỏ.
2. Sự chối bỏ
Chúa Jêsus xảy đến từ nhiều góc độ khác nhau. CÁC CẤP LÃNH ĐẠO
TÔN GIÁO tỏ vẻ thù nghịch ngày càng tăng theo mọi hướng. CÁC
NHÀ CHÍNH TRỊ rất hoang mang. Hêrốt sợ Chúa Jêsus giống như ông ta đã từng sợ Giăng
Báptít trước Ngài. Mặc dù THƯỜNG DÂN vẫn lấy làm lạ trước các
phép lạ của Ngài, họ ngày càng dửng dưng hơn đối với sứ điệp của Ngài. Thực ra
phép lạ nầy sẽ trở thành đỉnh cao trong sự Chúa Jêsus được lòng người. Giăng
6.15 nói sau bữa ăn đông người nầy, đoàn dân đông muốn "tôn
Ngài làm vua".
3. Chúa Jêsus lui
ra khỏi chức vụ công khai để ở riêng với các môn đồ Ngài. Chúng ta thấy điều đó
trong câu 13. Ngài "tẻ
ra" rồi đi đến "đồng vắng". Ngài hoàn toàn
không ở riêng một mình vì các sách Tin lành khác nói cho chúng ta biết các môn đồ
đã ở với Ngài. Ngài muốn làm cho các môn đồ đau lòng và hiểu rõ ý nghĩa sự chết
của Giăng Báptít. Ở thời điểm nầy, trong năm cuối của cuộc đời mình, Chúa Jêsus
đã để ra nhiều thì giờ hơn với các môn đồ Ngài, lo sửa soạn họ cho những gì sắp
xảy đến.
4. Chúa Jêsus
hoàn toàn kiệt sức từ chức vụ của Ngài. Chẳng có gì phải nghi ngờ nữa, Ngài
hoàn toàn kiệt sức do kế hoạch quá sốt sắng chuyên rao giảng và làm ra các phép
lạ. Ngài cũng đối mặt với sự căng thẳng do sự chống đối ngày càng tăng giữa
vòng các kẻ thù Ngài. Ngài đang lo xử lý với nỗi buồn đau riêng về sự mất mát
Giăng. Trên đỉnh cao mọi sự ấy, Ngài đang vật vã với tình trạng chưa trưởng
thành liên tục giữa vòng các môn đồ. Ngài cần một sự nghỉ ngơi! Đây là bằng chứng
của Kinh Thánh về việc cần phải nghỉ ngơi giữa hai lần làm việc!
5. Chúa Jêsus
không thể tẻ tách ra khỏi dân chúng. Câu 13 chép: "Khi
đoàn dân biết vậy, thì từ các thành đi bộ mà theo Ngài". Hãy nhớ, Chúa
Jêsus và các môn đồ đang băng ngang qua Biển Galilê "bằng
thuyền". Số dân nầy đang vội vã quanh bờ biển, họ “đi bộ". Mác 6:33 cho
chúng ta biết rằng "nhiều người nhận biết Ngài" hay biết nơi Ngài
sẽ đi đến và họ "đều chạy bộ" và nhiều người "đã
tới đó trước". Mặc dù đã có một vài người
chân thành tìm kiếm, hầu hết đều đến đó để giải trí mà thôi. Giăng 6:2 chép họ
theo Ngài: "vì từng thấy các phép lạ Ngài làm cho những kẻ bịnh".
6. Quyền phép của
Đức Chúa Trời còn sâu xa hơn các động lực bất kỉnh của người ta. Chúng ta hãy
xét qua tình cảm của Chúa Jêsus, sự chưa trưởng thành của các môn đồ, quyền
phép của Chúa Jêsus và sau cùng kiếm được một vài nguyên tắc cho phần ứng dụng
thực tế.
I. Chúa
Jêsus tỏ ra lòng thương xót của Ngài (câu 14).
A. Chúa Jêsus đặt mọi nhu cần
của dân chúng lên trên các nhu cần riêng của Ngài.
1. Khi Chúa Jêsus đến bờ biển,
Ngài "ở thuyền bước lên" và "thấy
đoàn dân đông đúc". Câu 21 cho chúng ta biết rằng đã có "năm
ngàn người, không kể đờn bà con nít". Nhiều học giả cho rằng đoàn
dân đông có thể được đếm rất thực tế giữa 15.000 và 25.000 người, tính luôn “đờn
bà và con nít”.
2. Hãy dừng lại trong một
phút rồi tưởng tượng quí vị phải làm gì nếu quí vị là Chúa Jêsus. Hãy nhớ quí vị
đã thấm mệt ngần nào rồi. Hãy nhớ tới sự căng thẳng. Hãy nhớ áp lực chống đối
ngày càng tăng. Nếu là quí vị hay là tôi, có lẽ chúng ta sẽ bảo đám đông nên trở
về nhà. Chúng ta sẽ dứt “đuôi” trên những ngọn núi, ở đó họ sẽ không đi
theo chúng ta được.
3. Không phải thế đâu, Chúa
Jêsus… khi Ngài "thấy đoàn dân đông đúc… Ngài động
lòng thương xót". Từ ngữ nói tới sự “thương xót” có nghĩa là động
lòng trắc ẩn nơi một người. Người xưa xem tấm lòng là ngai của tình cảm. Trong
xã hội của chúng ta, chúng ta sẽ nói: "Tấm lòng của
Ngài nhức nhối vì họ".
4. Chúa Jêsus làm cho tôi phải
hổ thẹn ở đây. Tôi đọc tới đây và nhận biết tôi thường chẳng giống với Chúa
Jêsus là dường nào. Có nhiều khi tôi không muốn trả lời điện thoại. Có nhiều
khi tôi không muốn gặp một ai hết. Có nhiều khi tôi không muốn tư vấn cho người
ta. Tôi chỉ muốn ở riêng một mình thôi. Tuy nhiên dưới áp lực ngày càng cao hơn,
Chúa Jêsus đáp lại bằng "lòng thương xót".
5. Tôi tin Chúa Jêsus đã động
lòng sâu sắc bởi sự đau khổ về phần xác và sự nhầm lẫn về mặt thuộc linh của họ.
9:36 nói tới đám đông khác: "Khi Ngài thấy những đám dân đông,
thì động lòng thương xót, vì họ khốn cùng, và tan lạc như chiên không có kẻ chăn".
6. Tấm lòng Chúa Jêsus thường
chiếu vào con người. Ngài đã "khóc" với Mary và
Mathê lúc Laxarơ chết. Khi Ngài nhìn xuống thành Jerusalem lần cuối cùng trước khi
bước vào thành phố, Luca 19.41 chép: "Ngài thấy
và khóc về thành".
B. Tấm lòng của Chúa Jêsus
chiếu vào hạng người tìm kiếm chỉ biết lấy cái tôi làm trọng.
1. Trong bất kỳ chức vụ nào,
bất kỳ Hội thánh nào luôn luôn có những người đứng quan sát, hạng người có mặt ở
đó chỉ để xem mà thôi. Họ chẳng đưa ra một sự đầu phục nào hết, mà chỉ muốn giải
trí thôi. Họ chẳng quan tâm đến Chúa hay đến người khác. Họ chỉ muốn mọi nhu cần
của họ được thoả mãn. Phần nhiều các vị Mục sư đều có ít thì giờ cho số người dân
như thế.
2. Không có việc thiếu vắng
số người nầy trong “đám đông” ngày ấy. Họ muốn
nhìn thấy một sự chữa lành bằng phép lạ hay một dấu lạ đến từ trời. Hãy đoán
xem đó là gì? Chúa Jêsus cũng “động lòng thương xót” họ nữa. Ngài
không quan tâm tới lý do tại sao họ đã đến, Ngài chỉ muốn họ tiếp thu lấy sứ điệp
mà thôi.
3. Chúa Jêsus cảm thấy "thương
xót" đối với cả đoàn dân đông vì sự hiểu biết thiêng liêng của Ngài đối với
địa ngục. Ngay cả khi Ngài "chữa cho kẻ
bịnh được lành" nỗi ao ước sâu sắc của Ngài là
sự chữa lành cho linh hồn của họ.
4. Chúa Jêsus gạt qua một
bên nhu cần về sự ở riêng, nghỉ ngơi riêng của Ngài với các môn đồ và thậm chí
cả thì giờ biệt riêng của Ngài với Cha của Ngài để làm thoả mãn nhu cần của hạng
người vô dụng, bị âm phủ trói buộc lấy nầy. Đó là lòng “thương
xót” thực.
II. Các môn đồ chứng
tỏ sự họ chưa trưởng thành (các câu 15-17).
A. Nan đề thiếu đồ
ăn (câu 15).
1. Câu 15 cho chúng ta biết
rằng trời đã chiều và “buổi tối” đã đến rồi. Có lẽ
khi ấy vào khoảng 6 giờ chiều, trước khi mặt trời lặn.
2. Trước khi trời
tối hẳn, các môn đồ đã lo về bữa ăn tối cho đoàn dân đông. Một lần nữa Kinh
Thánh cho chúng ta biết họ đang ở trong một “nơi vắng vẻ”, một chỗ hoang
vu, cách thị trấn gần nhất nhiều dặm đường. Và làng nào của xứ Galilê có thể
cung cấp nhiều thức ăn cho số người đông dường ấy chứ? Hơn nữa, dân sự có lẽ
còn đói bụng hơn khi họ phải đi một đoạn đường dài để gặp Chúa Jêsus.
3. Chúng ta hãy trở lại với Giăng
6:5-9 để có một nhận định khác nữa về bối cảnh nầy. Ở đây chúng ta học biết rằng
lúc sáng sớm, khi Chúa Jêsus trước tiên nhìn thấy đoàn dân đông, Ngài đã hỏi
Philíp: "Chúng ta sẽ mua bánh ở đâu, để cho dân nầy có mà ăn?"
4. Chúa Jêsus đã
hỏi Philíp câu nầy để "thử Philíp". Philíp xuất thân
từ khu vực đó và vốn biết rõ phải mua lượng thức ăn nhiều ở chỗ nào. Chúa Jêsus
mong Philíp sẽ nhìn xuyên qua những tài nguyên đời nầy mà nhìn thấy tài nguyên
của thiên đàng đang ngồi trước mặt ông ta.
5. Tuy nhiên,
Philíp lại run sợ trước số lượng người ta đông đảo hơn là độ lớn lao của quyền
phép Chúa Jêsus. Ông đang làm một phép tính trong đầu mình rồi đáp: "Hai
trăm đơ-ni-ê bánh không đủ phát cho mỗi người một ít". Một đơniê là tiền
lương trung bình của một ngày lao động. Sáu tháng tiền lương sẽ không đủ cho họ
ăn nữa là. Philíp vốn biết họ chẳng lấy đâu ra một số tiền lớn như thế.
6. Anhrê cũng khám phá ra một
cậu bé có một bữa ăn trưa gồm "năm cái bánh mạch nha và hai
con cá". Anhrê rất trung tín nói: "nhưng đông
người dường ấy có thấm vào đâu".
B. Nan đề thiếu đức
tin (các câu 16-17).
1. Nan đề không phải là thiếu
đồ ăn, mà là thiếu đức tin. Trở lại phân đoạn Kinh Thánh gốc, chúng ta đọc thấy
các môn đồ đã thưa với Chúa Jêsus: "xin thầy
cho dân chúng về, để họ đi vào các làng đặng mua đồ ăn".
2. Chúa Jêsus tiếp tục chức
vụ chữa lành, giảng dạy của Ngài và phán cùng các môn đồ: "Chính
các ngươi hãy cho họ ăn". Đây là một thử nghiệm, một thử thách để kiểm
tra cấp độ trưởng thành của các môn đồ.
3. Từ nhận định của chúng ta
qua việc đọc và nghe kể câu chuyện nầy nhiều lần, câu trả lời dường như rất rõ
ràng. Tuy nhiên, chúng ta phải nhìn nhận rằng quan niệm Chúa Jêsus cho đoàn dân
đông ăn bằng phép lạ không hề có trong lý trí của họ.
4. Sau khi đồng đi với Chúa
Jêsus trong 2 năm trời, chúng ta nghĩ tự nhiên họ sẽ ngồi lại rồi nói: "Ok,
thưa Chúa . Chúng ta phải lo việc ấy ngay bây giờ. Không có một chỗ nào để mà
mua đồ ăn cả. Chúng ta không có tiền mặt. Cách duy nhứt chúng ta có thể “cho họ
ăn” là Ngài sẽ ban thứ đồ ăn đó cho chúng tôi".
5. Tôi tin rằng nếu có ai đó
từ trong đám đông đến hỏi Phierơ: "Liệu Thầy
của ông có cho đám đông nầy ăn bằng phép lạ không?" Phierơ sẽ đáp
ngay: "Tất nhiên là Ngài có quyền mà". Thế mà họ không
thể nhìn thấy phép lạ ấy.
6. Trước khi chúng ta xét đoán
các môn đồ, chúng ta hãy chịu khó nhìn lại đức tin của chính mình đi. Có bao
nhiêu lần chúng ta đối diện với những gì dường như là các nan đề khó vượt qua nổi
rồi quên đi khả năng can thiệp của Đức Chúa Trời?
III. Chúa Jêsus
bày tỏ ra quyền phép của Ngài (các câu 18-21).
A. Chúa Jêsus cho
dân sự ngồi xuống.
1. Nói về mấy cái bánh và
cá, Chúa Jêsus phán: "Hãy đem đây cho Ta". Tôi tưởng tượng
một cái nhìn thất vọng nơi ánh mắt của Ngài khi thấy các môn đồ đã không qua nổi
phần thử nghiệm mà Ngài đã đặt ở trước mặt họ.
2. Vì vậy Chúa Jêsus đã phán
cùng họ: "Ta vốn biết các ngươi không có đủ
đồ ăn để cho họ ăn. Ta biết rõ các ngươi không có đủ tiền bạc để mua đồ ăn. Ta biết các ngươi không có một chỗ nào để mua
đủ đồ ăn đó. Ta đang yêu cầu các ngươi phải tin cậy Ta, đem đến cho Ta chút phần
mà các ngươi đang có và hãy tin cậy Ta làm phần còn lại".
3. Khu vực nơi phép lạ đã diễn
ra có những sườn núi toàn là cỏ. Dân chúng đang đứng để nhìn thấy Chúa Jêsus rõ
hơn. Giờ đây, vì những lý do mà họ không biết: "Ngài bèn
truyền cho chúng ngồi xuống trên cỏ". Mác 6:40 thêm: "Chúng
ngồi xuống từng hàng, hàng thì một trăm, hàng thì năm chục".
B. Chúa Jêsus cho
dân sự ăn.
1. Chúa Jêsus cầm lấy bữa ăn
trưa của cậu bé: "ngửa mặt lên trời mà tạ ơn, rồi bẻ
bánh ra đưa cho môn đồ, môn đồ phát cho dân chúng". Câu chuyện là thế
đó. Không có một lời giải thích nào khác nữa. Chúng ta không biết chính xác
giây phút nào phép lạ diễn ra. Rõ ràng là đã có rất nhiều đồ ăn, đồ ăn có liên
tục. Có lẽ phép lạ đã diễn ra trong một thời gian ngắn trước khi dân sự hiểu
chuyện gì đã xảy ra, vì họ không sao nhìn thấy được Chúa Jêsus đã làm gì.
2. Họ "ai
nầy đều ăn no". "No" đến từ một từ được
dùng để nói tới loài thú ở lì trong máng ăn cho tới chừng chúng không còn gì để
ăn nữa. Nhiều học viên Kinh Thánh lấy câu nầy để nói rằng vì “bánh” và “cá” được tạo ra theo
cách thiêng liêng nên dân sự đã kinh nghiệm được một sự no nê hay thoả mãn từ bữa
ăn không giống như các thứ đồ ăn khác. Nhiều người tin thứ đồ ăn nầy là trọn vẹn,
không bị hỏng kể từ sự Sa Ngã.
3. Không những có đủ đồ ăn đến
nỗi ai nấy đều ăn “no” mà họ còn "thâu
được 12 giỏ bánh thừa” nữa. Mỗi một môn đồ đều có một
giỏ bánh và hết thảy họ đều dự phần với Chúa Jêsus. Trong kinh tế của Đức Chúa
Trời không bao giờ có quá nhiều hay quá ít.
4. Hãy suy nghĩ xem điều chi
đã xảy ra cho đoàn dân đông trong ngày đó. Các môn đồ đã học biết một bài học
thuộc linh có giá trị về việc trông mong Đức Chúa Trời tiếp trợ cho mọi nhu cầu
của họ. Các tín đồ trong đám đông đã có đức tin của họ được làm cho vững vàng
và họ đã thờ lạy Chúa. Những người không tin đã tự xét đoán mình bằng cách ăn
no thoả mãn bánh đến từ tay của Chúa Jêsus, nhưng lại từ chối không chịu ăn cho
thoả mãn “Bánh Sự Sống”.
IV. Hai nguyên tắc
Kinh Thánh phải ứng dụng.
A. Lòng thương xót thực luôn
luôn đặt nhu cần của tha nhân lên trước hết.
B. Sự trưởng
thành thuộc linh luôn luôn nhìn xem Chúa Jêsus trước hết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét