Thứ Năm, 29 tháng 1, 2015

Bài 92: Mathiơ 26:31-35: "HẾT THẢY SẼ VẤP PHẠM"


MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Hết thảy sẽ vấp phạm
Mathiơ 26:31-35
Tôi sẽ không bao giờ quên được buổi nhóm của một vị Mục sư ở Colorado Springs cách đây vài năm. Tôi nhóm vào buổi sáng rồi trở về lại khách sạn để nghỉ khoẻ. Tôi mở TV lên để nghe tin tức buổi trưa và trên màn hình là thảm kịch hành vi bạo lực giết người của hai học sinh ở trường Trung học Columbine chỉ cách Littleton có mấy dặm đường thôi. Tôi đã say mê xem khi một học sinh người đầy máu rơi xuống từ cửa sổ tầng thứ hai đúng ngay tầm tay của các thành viên đội đặc nhiệm đứng ở bên dưới. Bối cảnh của cả cuộc hộp thảo đã bị thay đổi vì cớ tấn thảm kịch đang diễn ra cách mấy dặm về phía Bắc.
Nhiều ngày trôi qua trước khi cả nước hay được câu chuyện của Cassie Bernall và Rachel Scott. Hai học sinh thuộc dạng khủng bố đã kề súng vào dầu của các học sinh khác rồi hỏi: "Tụi bây có tin Đức Chúa Trời không?" Mỗi đứa học sinh khi ấy đều đáp “có”. Ngay sau khi chúng trả lời, thì hung thủ đã bóp cò súng. Chúng sẽ sống luôn trong ký ức của chúng ta như những nhà tuận đạo Cơ đốc, chúng đã chịu chết vì cớ đức tin của mình.
Đây không phải là một sự cố biệt lập đâu! Không lâu trước khi cuộc tàn sát ở trường Columbine, một sinh viên đã tấn công một nhóm sinh viên khác ở một buổi nhóm cầu nguyện tại Paducah, bang Kentucky. Ai trong chúng ta không cảm thấy rùng mình khi chúng ta từ nhà thờ trở về nhà vào một tối thứ Tư rồi nghe thấy các tin tức kinh khủng nói về một tay súng chống Cơ đốc nhân đã bước vào buổi nhóm của thanh niên tại Hội thánh Báptít Ft. Worth’s Wedgewood. Kẻ gây rối loạn đã khai hoả ngay giữa buổi thờ phượng, giết chết 8 người và gây bị thương nhiều người khác trước khi kết liễu mạng sống mình.
Còn quí vị thì sao? Còn tôi thì sao? Chúng ta sẽ làm gì khi có ai đó chĩa súng vào đầu chúng ta rồi hỏi: “Mày có tin Đức Chúa Trời không?" Chúng ta sẽ trả lời sao nếu được chọn lựa rút lại, từ bỏ đức tin hay bị thiêu sống hoặc bị sư tử ăn thịt hay bị hành hình cho tới chết? Chúng ta nguyện rằng chúng ta sẽ dạn dĩ khẳng định đức tin của mình và cậy ơn mà chịu chết cho Đấng Christ.
Tuy nhiên, thắc mắc làm cho chúng ta phải lo lắng, vì chúng ta cũng nhìn biết rằng ít nhiều gì chúng ta thường chối Chúa trong các hoàn cảnh bị hăm dọa. Thay vì làm chứng cho Chúa Jêsus, chúng ta cứ giữ im lặng. Chúng ta đã sa vào tội lỗi khi chúng ta đã ăn ở trong sự công bình. Những thất bại nầy làm cho chúng ta phải lấy làm lạ về sự đầu phục trọn vẹn của chúng ta.
Khi chúng ta tiếp tục bài nghiên cứu về những giờ sau cùng trước khi Chúa Jêsus bước lên thập tự giá, chúng ta thấy một tấm gương đáng sợ về những gì đang xảy ra khi Cơ đốc nhân tin vào khả năng của bản thân mình thay vì tin vào khả năng của Đấng Christ.
Nếu quí vị đã học hỏi với chúng tôi hai tuần lễ qua, quí vị biết rằng Mathiơ 26 đề ra bối cảnh cho sự đóng đinh trên thập tự giá ở chương 27. Chúa Jêsus nói với các môn đồ ở câu 2 rằng đây sẽ là sự tưởng niệm "Lễ Vượt Qua" sau cùng, rồi Ngài sẽ bị "nộp để bị đóng đinh trên thập tự giá". Các cấp lãnh đạo tôn giáo của dân Israel đã “bàn bạc” quanh co làm thế nào để “mưu” bắt Ngài, nhưng họ lại sợ "lộn xộn" hay rối loạn giữa đoàn dân đông trong các ngày lễ. Họ rất đỗi vui thích khi Giu-đa Ích-ca-ri-ốt hiến kế "nộp" Ngài để lấy "ba mươi miếng bạc", cái giá của một tên nô lệ. Mary đã xức dầu Chúa Jêsus cho sự “chôn cất” Ngài bằng dầu đắt tiền và Giu-đa "đã tìm cách để phản Ngài".
Khi Lễ Vượt Qua đến, Chúa Jêsus đã ăn bữa ăn truyền thống cùng với các môn đồ của Ngài trên một căn phòng mà người ta cho mượn. Ở đây, Ngài đã tuyên bố lần đầu tiên rằng một người trong số họ sẽ phản Ngài. Không một môn đồ nào khác hiểu được chuyện gì đã diễn ra, Giu-đa đã băng mình vào bóng đêm hầu thực thi hành động phản bội của hắn. Khi ấy Chúa Jêsus mới cầm cái chén của Lễ Vượt Qua và thiết lập một lễ mới, là Lễ Tiệc Thánh. Chúa Jêsus công bố một sự kết thúc Giáo Ước Cũ và đánh dấu sự khởi đầu của Giao Ước Mới.
Câu 30 kết luận bằng cách nói: "Khi đã hát thơ thánh rồi, Đức Chúa Jêsus và môn đồ đi ra mà lên núi, Ô-li-ve". Không nghi ngờ chi hết, họ phải băng ngang qua mấy con đường phố đông đúc với khách hành hương khi họ hướng về phía đông. Họ băng ngang qua khe Kít-rôn trải dài với màu đỏ huyết của hàng ngàn chiên con bị giết trước đó trên núi đền thờ.
Họ đang trên đường đến "một chỗ kêu là Ghết-sê-ma-nê" có nghĩa là "ép dầu ôlive" (câu 36). Khi tôi còn ở nước Nga, tôi đã học biết về dauchas, các nông trại nhỏ nằm ven các thành phố. Tương tự, có ít chỗ trống bên trong thành Jerusalem cho một lùm cây ôlive. Có thể đây là chỗ mà một trong các môn đồ của Ngài làm chủ.
Trong khi họ phải đi khoảng 3/4 dặm đường, chuyến đi khoảng nửa giờ, Chúa Jêsus tỏ ra một lời tiên tri khác đáng giật mình, một lời tiên tri đâm thẳng vào tấm lòng kiêu ngạo và tự tín của các môn đồ… hết thảy họ sẽ vấp phạm.
I. Lời tiên tri thiêng liêng của Chúa Jêsus (các câu 31-32).
A. Chúa Jêsus nói trước về sự họ bỏ rơi Ngài (câu 31a).
Có lẽ khi họ trèo từ từ lên sườn "Núi Ôlive", một nơi mà Chúa Jêsus mới vừa thốt ra lời tiên tri dứt khoát nhất của Ngài, Ngài phán: "Đêm nay các ngươi sẽ đều vấp phạm vì cớ ta".
"Vấp phạm" ra từ chữ skandalizo, từ chữ nầy chúng ta có chữ "scandal" (nói xấu, thoá mạ, tai tiếng). Chữ nầy mang ý tưởng "khúc gỗ làm cho vấp té, một cái bẫy lưới".
Chúa Jêsus đã nói trước rằng "hết thảy" các môn đồ sắp sửa đối diện với một trở ngại, qua đó "hết thảy" họ sẽ vấp rồi té ngã. Mặc dù chỉ có một người phản Ngài, hết thảy họ sẽ bỏ Ngài trong đêm đó.
Đúng là một sự trái ngược! Trong khi Chúa Jêsus đường hoàng gánh chịu sự bắt bớ và nhiều thử thách, trong khi Ngài với lòng can đảm bất khuất chuẩn bị gánh chịu thập tự giá, họ lại bỏ chạy trong sự hèn nhát rồi lẫn trốn trong bóng đêm. Quả là một bức tranh nói tới sự đồi bại của con người! Trong khi Chúa Jêsus gánh lấy tội lỗi của họ trên chính mình Ngài và chịu chết trong chỗ của họ, họ đã không nhận rằng họ quen biết Ngài!
Hãy chú ý một lần nữa quyền quản trị tối cao của Ngài trên từng chi tiết. Ngài biết chính xác điều gì sẽ xảy ra. Ngài biết rõ họ sẽ nói gì và họ sẽ làm gì nữa. Ngay cả các cấp lãnh đạo tôn giáo của người Do thái, những nhà chính trị La mã, mấy tên lính và đoàn dân đông đang hành động theo ý riêng của họ, Đức Chúa Cha đang bố trí các biến cố hầu cho chương trình tội lỗi của họ bị mất đi vẽ hào nhoáng bởi chương trình đời đời của Ngài. Mấy câu nầy nhấn mạnh rằng chẳng có một điều chi xảy ra do tình cờ cả. Quả thực Chúa Jêsus là "Chiên Con đã bị giết từ khi sáng thế" (Khải huyền 13:8).
B. Cựu Ước nói trước về sự bỏ trốn của họ (câu 31b).
Mathiơ, một chứng nhân ghi lại rằng Chúa Jêsus đã trưng dẫn trực tiếp từ Cựu Ước như một sự ứng nghiệm lời tiên tri. Chúa Jêsus đã kể ra Xachari 13:7. Giống như nhiều chi tiết khác trong tuần lễ Thương Khó, "những lời các đấng tiên tri đã chép được ứng nghiệm".
Hãy suy nghĩ trong một phút, Chúa Jêsus đã cung ứng cho họ vài mẫu tin tức đáng giật mình. Thứ nhứt, Ngài sẽ bị nộp vào trong tay của kẻ thù rồi bị đóng đinh trên thập tự giá. Thứ hai, kẻ phản bội lại là một trong 12 sứ đồ. Giờ đây, tình hình lại càng nguy kịch hơn, Ngài phán hết thảy họ sẽ "vấp phạm" rồi trốn đi. Để nhấn mạnh thực tại của lẽ thật nầy Chúa Jêsus chỉ cho họ thấy sự chối bỏ của họ đến thẳng từ trong Cựu Ước.
Xachari đã nói tiên tri về các tiên tri thờ lạy hình tượng, họ sẽ bị cất ra khỏi Israel. Một số người trong họ sẽ đoạn tuyệt với sự dối gạt của mình. Tuy nhiên trong câu 7, Đức Giêhôva phán: "Hỡi gươm, hãy thức dậy nghịch cùng kẻ chăn của ta, và nghịch cùng người làm bạn hữu ta; hãy đánh kẻ chăn, cho những chiên tản lạc". Hãy chú ý Đức Giêhôva phán về "kẻ chăn của ta" "người làm bạn hữu ta" (ý nói tới sự đồng đẳng). Chính Đấng Chăn/Bạn Hữu thiêng liêng mà Đức Giêhôva kêu gọi "gươm" đến "đánh". Rõ ràng, điều nầy chỉ có thể nhắm vào Đấng Mêsi mà thôi. Êsai 53 chép: "Thật người đã mang sự đau ốm của chúng ta, đã gánh sự buồn bực của chúng ta; mà chúng ta lại tưởng rằng người đã bị Đức Chúa Trời đánh và đập, và làm cho khốn khổ".
"Bầy chiên" theo một ý nghĩa chung chung đề cập tới nước Israel, từ thời điểm nầy trở đi sẽ bị "tản lạc" và bị tan rải khắp thế gian. Cho tới ngày nay, căn cứ vào một thiểu số nhỏ người Do thái trên thế giới, còn sống trong nước Israel.
Theo một ý nghĩa đặc biệt, "bầy chiên" bị tản lạc rõ ràng đề cập tới các môn đồ của Chúa Jêsus và đặc biệt là 11 môn đồ. Khi Chúa Jêsus bị đánh bị đập, từng người trong số họ sẽ "vấp phạm" và hết thảy họ "sẽ bị tản lạc".
C. Sự toàn tri của Chúa Jêsus bảo đảm sự phục hưng của họ (câu 31).
Sau các tin tức đau thương nầy, Chúa Jêsus cung ứng cho họ một lý do để vui mừng, hy vọng vào ngày mai và buổi bình minh hầu đến so với bóng đêm tăm tối của đời sống họ. Ngài phán: "Song sau khi ta sống lại rồi, ta sẽ đi đến xứ Ga-li-lê trước các ngươi".
Chúa Jêsus sẽ đối mặt với sự hy sinh vì cớ tội lỗi và sự chết của Ngài trên thập tự giá, vì Ngài biết rõ sự chết không thể giữ được Ngài. Ngài biết Ngài sẽ sống lại từ kẻ chết bởi quyền phép của Cha Ngài. Ngài đã phán điều nầy rồi trong một vài cơ hội (16:21; 17:9, 23; 20:18-19).
Các môn đồ vốn biết rõ Chúa Jêsus có quyền phép thắng hơn sự chết. Họ đã nhìn thấy Ngài kêu gọi mấy người từ kẻ chết sống lại. Có lẽ sự sống lại cảm động nhất do chính tay Ngài thực hiện, ấy là sự sống lại của Laxarơ. Khi ấy, Chúa Jêsus đã phán: "Ta là sự sống lại và sự sống; kẻ nào tin ta thì sẽ sống, mặc dầu đã chết rồi" (Giăng 11:25).
Họ cần phải nhớ rõ khi bóng tối tăm nầy đã qua đi, khi họ biết Ngài đã "sống lại" rồi mới đi qua xứ "Galilê" vì Ngài sẽ lên đó trước họ.
Khi mấy người đờn bà gặp thiên sứ nơi ngôi mộ trống, Ngài đã phán cùng họ rằng: "Ngài không ở đây đâu; Ngài sống lại rồi, như lời Ngài đã phán. … hãy đi mau nói cho môn đồ Ngài hay rằng … Ngài đi trước các ngươi qua xứ Ga-li-lê; ở đó, các ngươi sẽ thấy Ngài" (28:6-7). Mấy phút sau đó, hai người có tên Mary đã nhìn thấy chính mình Chúa Jêsus. Ngài phán cùng họ: "hãy đi bảo cho anh em ta đi qua xứ Ga-li-lê, ở đó sẽ thấy ta" (câu 10). Ở phần cuối chương, chúng ta thấy quả thực "Mười một môn đồ, đi qua xứ Ga-li-lê, lên hòn núi mà Đức Chúa Jêsus đã chỉ cho".
Bài học ở đây, ấy là dù các môn đồ có yếu đuối, dù họ vấp phạm, họ đã không làm ngăn trở chương trình tối thượng của Đức Chúa Trời được. Thực vậy, Đức Chúa Trời đã sử dụng tình trạng yếu đuối của họ để hoàn tất chương trình của Ngài. Ngài cũng sẽ làm như thế với chúng ta. Chúng ta không nên lo lắng mà chi. Chúng ta tin cậy vào quyền tể trị của Ngài.
II. Sự kiêu ngạo của các môn dồ (các câu 33-35).
A. Phierơ khhoe khoang trong sự kiêu căng (câu 33).
Không cứ cách nào đó, Phierơ, một là không nghe thấy hoặc bất chấp lời nói của Chúa Jêsus. Tôi không nghĩ là ông có nghe Chúa Jêsus phán điều chi sau khi Ngài phán: "hết thảy các ngươi sẽ vấp phạm vì cớ ta". Phierơ đã nghĩ: "Có thể hết thảy bọn họ sẽ vấp phạm, còn mình thì không đâu!" Chính trong lối suy nghĩ ấy, ông đã thốt ra: "Dầu mọi người vấp phạm vì cớ thầy, song tôi chắc không bao giờ vấp phạm vậy".
Hãy hình dung nỗi buồn đau đớn lắm mà Cứu Chúa đã phải chịu. Kẻ phản Ngài đang ngồi gần đây! Ngài sắp sửa phải gánh chịu sự hành hình và sự chết về phần xác. Còn tệ hơn nữa, Ngài sắp sửa gánh lấy từng tội lỗi của từng người thuộc dòng dõi Ađam trên chính linh hồn vô tội của Ngài. Thực vậy, trong câu 38, Ngài phán: "Linh hồn ta buồn bực cho đến chết". Trên hết mọi điều nầy, Phierơ lại lòi ra thái độ mâu thuẫn có tính cách tự phụ đối với lời lẽ của Chúa Jêsus!
Phierơ nhắc cho tôi nhớ tới mấy đứa con của tôi. Chúng hay nghe theo kiểu chọn lọc lắm. Chúng chỉ nghe những gì chúng muốn nghe và chúng luôn luôn muốn tranh luận. Mặc dù Phierơ nói: "Lạy Chúa, tôi ở với Ngài. Đối với tôi, không có gì ngạc nhiên khi từng người trong số người nầy sẽ xây lưng bỏ chạy. Họ chưa từng biết tận tụy đâu. Nhưng Ngài không thể nói tôi quên Ngài được. Tôi không quên đâu! Chúng ta đã ở với nhau quá lâu rồi! Ngài biết tôi mà! Ngài biết tôi rất vững vàng mà. Tôi sẽ đứng và chiến đấu cho Ngài, lạy Chúa. Chúng nó phải bước qua xác tôi thì mới bắt được Ngài!"
Những gì Mathiơ không thuật lại cho chúng ta biết, các trước giả sách tin lành khác lại chỉ ra. Giăng 14-17 cho thấy rằng sau Tiệc Thánh, Chúa Jêsus đã trao đổi với họ nhiều vấn đề ở trên phòng cao đó. Ngài nói cho họ biết về thiên đàng, sự giáng lâm của Đức Thánh Linh, sự chống đối mà họ sẽ gặp phải, quyền phép của Ngài thể nào ở cùng họ và Ngài sẽ tái lâm như thế nào. Họ đã nghe Ngài cầu nguyện một bài cầu nguyện thật linh động và rất quan trọng, trong đó Ngài đã cầu thay vì ích cho họ. Luca 22:31-32 ghi lại mọi điều Chúa Jêsus đã phán trong khi vẫn còn ở trên phòng cao: "Hỡi Si-môn, Si-môn, nầy quỉ Sa-tan đã đòi sàng sảy ngươi (“hết thảy các ngươi” – số nhiều) như lúa mì. Song ta đã cầu nguyện cho ngươi (số ít), hầu cho đức tin ngươi không thiếu thốn. Vậy, đến khi ngươi đã hối cải, hãy làm cho vững chí anh em mình". Thay vì sấp mặt xuống đất trong sự hạ mình, Phierơ đã kháng cự lại lời tiên tri nầy, ông nói: "Thưa Chúa, tôi sẵn lòng đi theo Chúa, đồng tù đồng chết". Khi ấy Chúa phán: "Hỡi Phi-e-rơ, ta nói cùng ngươi, hôm nay khi gà chưa gáy, ngươi sẽ ba lần chối không biết ta" (câu 34).
B. Lời tiên đoán chắc chắn của Chúa Jêsus (câu 34).
Bây giờ, ở đây, trên đường đi đến vườn, sau khi Phierơ tự phụ một lần nữa về tính trung thực của mình, Chúa Jêsus lặp lại những gì Ngài đã phán trước đó: "Quả thật, ta nói cùng ngươi, chính đêm nay, trước khi gà gáy, ngươi sẽ chối ta ba lần".
Lúc bấy giờ trời tối lắm, có lẽ gần tới nửa đêm rồi. Nếu quí vị từng để thì giờ ở quanh bầy gà, quí vị biết ngay con gà trống không chờ cho tới khi mặt trời mọc nó mới bắt đầu gáy lên đâu. Chúa Jêsus đang phán rằng trong vòng mấy giờ đồng hồ nữa, có lẽ ba hoặc bốn giờ đồng hồ thôi, Phierơ sẽ chối Ngài "ba lần". Thực vậy, không lâu sau đó Phierơ đã đưa ra lời chối thứ ba của mình "tức thì gà gáy. Phi-e-rơ nhớ lại lời Đức Chúa Jêsus đã phán….Đoạn, người đi ra và khóc lóc cách đắng cay" (các câu 74-75).
C. Quyết định tự tin của Phierơ (câu 35).
Đến bây giờ, Phierơ chưa tin Chúa Jêsus. Ở một số trường hợp khác, Phierơ đã quở trách hay mâu thuẫn với Chúa (16:22). Ông tưởng mình vững vàng hơn, mạnh mẽ hơn, cứng rắn hơn và trung tín hơn các môn đồ khác. Giờ đây chúng ta thấy ông chỉ tin cậy tuyệt đối vào sức riêng của mình, vì vậy ông nói: "Dầu tôi phải chết với thầy đi nữa, tôi chẳng chối thầy đâu". Lời nói nầy thật là dứt khoát, dường như ông đã hô lớn lên vậy. Không có ai giỏi hơn ông nữa, "hết thảy môn đồ đều nói y như vậy". Sự ngạo mạn ấy rất hay lây.
Nhiều ngày sau, sau ba lần chối, sau sự chết, sự chôn và sự sống lại của Chúa, Phierơ đã ngồi với Chúa dùng điểm tâm bên bờ biển Galilê. Giăng 21:15 ghi lại thể nào Chúa Jêsus đã hỏi: "Hỡi Si-môn, con Giô-na, ngươi yêu ta hơn những kẻ nầy chăng?" Lời đáp của Phierơ giờ đây rất rụt rè và không dám chắc. Ông đáp: "Lạy Chúa, phải, Chúa biết rằng tôi yêu Chúa". Ông không nói ông yêu Ngài nhiều nhất, mà nói rằng Chúa biết ông yêu Ngài. Không còn có tự hào, không còn có những lời lẽ xẳng xớm nữa. Tình yêu của Phierơ đã không thu nhỏ lại, nhưng sự kiêu ngạo cực kỳ của ông đã không còn có nữa. Tôi nghĩ sở dĩ như thế là vì Phierơ đã chối Chúa ba lần, còn Chúa Jêsus đã cung ứng cho Phierơ ba cơ hội để thể hiện ra tình yêu của ông.
Phierơ, cũng như số môn đồ còn lại, họ đã học một bài học mà chúng ta là các môn đồ thời hiện đại đây phải tiếp thu. Khi chúng ta tin cậy vào khả năng riêng của mình, chúng ta sẽ luôn thất bại. Khi chúng ta tin cậy vào khả năng của Đấng Christ, chúng ta luôn luôn đắc thắng.
Một vài ngày sau, vào kỳ lễ Ngũ Tuần, một Phierơ đã được biến đổi đứng trước đoàn dân đông và dạn dĩ rao giảng Đấng Christ. Còn các môn đồ khác, họ dạn dĩ nói với thầy tế lễ cả: "Thà phải vâng lời Đức Chúa Trời còn hơn là vâng lời người ta" (Công Vụ các Sứ Đồ 5:29). Đức Chúa Trời đang hành động, Ngài tể trị thậm chí trên mọi thất bại của chúng ta. Thế rồi Ngài phục hưng chúng ta và mặc lấy cho chúng ta quyền phép để lo làm công việc của Ngài.

***



Thứ Tư, 28 tháng 1, 2015

Bài 91: Mathiơ 26:17-30: "TỪ LỄ VƯỢT QUA ĐẾN TIỆC THÁNH"


MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Từ Lễ Vượt Qua đến Tiệc Thánh
Mathiơ 26:17-30
Trong các câu 1-16 ở Mathiơ 26, chúng ta đã học biết về bốn sự chuẩn bị cho sự chết của Chúa Jêsus. Sự chết nầy đã được Đức Chúa Trời tiền định sau "hai ngày nữa" (câu 2). Các cấp lãnh đạo người Do thái đã âm mưu làm việc ấy (các câu 3-5). Mary đã xức dầu cho Chúa (các câu 6-13). Và Giu-đa đã chuẩn bị trước cho sự chết đó (các câu 14-16).
Trong phân đoạn Kinh Thánh ngày hôm nay, chúng ta xem xét chính mình Chúa Jêsus đã thực thi một số sự chuẩn bị sau cùng như thế nào trước khi lên thập tự giá. Ngài đã kỷ niệm Lễ Vượt Qua với các môn đồ và Ngài thiết lập Lễ Tiệc Thánh đầu tiên.
Lễ Vượt Qua là lễ xưa nhất trong các kỳ lễ của người Do thái và là lễ đầu tiên trong tờ lịch của năm (Lêvi ký 23:5). Ngày sau Lễ Vượt Qua bắt đầu bằng Lễ Bánh Không Men (Lêvi ký 23:6), lễ nầy kéo dài trong 7 ngày. Hai kỳ lễ và sự tưởng niệm trong 8 ngày có liên quan tới cả khoảng thời gian được gọi là “Lễ Vượt Qua” hay "Lễ Bánh Không Men". Từ ngữ thường được sử dụng theo cách hoán đổi lẫn nhau như chúng ta thấy trong câu 17. Câu nầy nói tới "ngày thứ nhứt ăn bánh không men" và ăn "Lễ Vượt Qua" là cùng một sự cố.
Bốn ngày trươc Lễ Vượt Qua, mỗi gia đình đều phải chọn một chiên con làm sinh tế. Vì các sự cố trong phân đoạn nầy đã diễn ra nhằm ngày thứ Năm của Tuần Lễ Thương Khó, Chúa Jêsus cùng các môn đồ không nghi ngờ chi nữa đã dự lễ nầy vào ngày thứ Hai ngay sau lần Đắc Thắng Vào Thành Jerusalem.
Những chiên con đều phải được đưa đến cho các thầy tế lễ tại đền thờ vào lúc "chiều tối" theo Xuất Êdíptô ký 12:6. Ở đó trong khoảng hai giờ đồng hồ, chúng sẽ được dâng làm sinh tế chuộc tội. Một học giả đã chú thích như sau: "Khi tất cả chiên con bị giết trong thời gian hai tiếng đồng hồ ngay trước khi chiều tối…, công việc nầy đòi hỏi phải có tới 600 thầy tế lễ, giết trung bình 4 chiên con trong một phút để hoàn tất phần việc nầy chỉ trong một buổi chiều mà thôi".
Hãy tưởng tượng số lượng huyết nhiều như thế nào từ số chiên con đó. Sử gia Josephus đã ước lượng 250.000 con đã bị giết. Các thầy tế lễ mặc áo trắng sẽ bị nhuốm đầy với huyết đó. Nền nhà đầy những huyết và dân sự sẽ đem huyết dính nơi chân mình mà lê khắp thành phố. Từ núi đền thờ huyết chảy dài xuống Trũng Kít-rôn, ở đó dòng huyết biến thành màu đỏ thẳm sáng rực trong nhiều ngày. Bối cảnh là một sự nhắc nhớ đến cái giá của tội lỗi. Hêbơrơ 9:22 chép: "Theo luật pháp thì hầu hết mọi vật đều nhờ huyết mà được sạch: không đổ huyết thì không có sự tha thứ".
Hãy chú ý trong câu 28 của phân đoạn Kinh Thánh, Chúa Jêsus phán rằng huyết của Ngài sẽ bị "đổ ra cho nhiều người được tha tội". Tại sao chứ? Vì Hêbơrơ 10:4 chép: "Vì huyết của bò đực và dê đực không thể cất tội lỗi đi được".
Thật là thú vị khi thấy người Pharisi cũng như tất cả người Do thái xứ Galilê đếm các ngày từ lúc mặt trời mọc hôm nay đến khi mặt trời mọc ngày mai, trong khi người Sađusê và người Do thái xứ Giu-đê đếm các ngày của họ từ lúc mặt trời lặn bữa nay cho tới khi mặt trời lặn ngày mai. Vì lẽ đó ngày 14 tháng Nisan đối với người Galilê rơi nhằm ngày thứ Năm và nhằm ngày thứ Sáu đối với người xứ Giu-đê. Vì thế việc giết chiên con đã diễn ra vào cả hai ngày thứ Năm và thứ Sáu.
Chúng ta hãy xem xét từng chi tiết để học biết Chúa Jêsus đã kỷ niệm cả Lễ Vượt Qua lần cuối cùng và thiết lập Tiệc Thánh lần đầu tiên như thế nào!?!
I. Chúa Jêsus kỹ niệm Lễ Vượt Qua lần cuối cùng (các câu 17-25).
A. Những sự chuẩn bị cho Lễ Vượt Qua (các câu 17-19).
Đúng vào "ngày thứ nhứt ăn bánh không men" mà các "môn đồ đến gần Chúa Jêsus" và hỏi: "Thầy muốn chúng tôi dọn cho thầy ăn lễ Vượt qua tại đâu?" Khi ấy là sáng thứ Năm và họ có nhiều việc phải lo làm. Không những họ còn phải đem chiên con đến để cho các thầy tế lễ dâng làm sinh tế, họ cần phải mua bánh không men, rượu và rau đắng để dự lễ nữa. Thắc mắc không nằm ở chỗ Ngài muốn họ phải làm gì, mà họ sẽ dọn và ăn bữa ăn nầy ở đâu đấy thôi.
Hãy nhớ cả thành phố đã đông người lắm, khoảng 2 triệu người. Các phòng ăn lớn, không nghi ngờ chi nữa, đã được nhiều quý khách đặt với giá cao hết rồi. Có lẽ trong các kỳ lễ Vượt Qua trước đây, họ đã xúm nhau lo liệu, Chúa Jêsus đã lo liệu phòng ốc và bữa ăn cho họ.
Chúa Jêsus bảo họ "Hãy vào thành, đến nhà một người kia". Mác 14:13 và Luca 22:10 nói người nầy đang "xách vò nước". Điều nầy hơi lạ, vì thường thì phụ nữ mới là người đi xách nước. Người đờn ông là người được xem trọng hơn. Họ chỉ phải nói với người ấy: "Thầy nói: Giờ ta gần đến; ta và môn đồ ta sẽ giữ lễ Vượt qua trong nhà ngươi".
Tại sao lại có một sự tiếp cận quá giữ kẻ như thế nầy? Hãy xem, Giu-đa đã trông đợi sẵn một "dịp tiện để nộp Ngài" (câu 16). Chúa Jêsus đã lo liệu mọi sự chuẩn bị để có căn phòng bảo đảm bữa ăn sau cùng nầy cùng với các môn đồ trước khi Ngài bị bắt. Vì Phierơ và Giăng luôn làm phần việc nầy một mình (Luca 22:8), Giu-đa không có thì giờ để thông báo cho các thầy tế lễ thượng phẩm biết. Chúa Jêsus với sự toàn tri của Ngài đã cai quản từng chi tiết một.
Hãy lưu ý, đặc biệt Chúa Jêsus đã phán: "Giờ ta gần đến" (câu 18). Ở các dịp khác Chúa Jêsus phán: "Giờ ta chưa đến" và lời lẽ cho thì giờ đó (Giăng 7: 6, 8 v.v…). Bây giờ, thì giờ đã đến rồi. Giăng 13:1 chép: "Trước ngày lễ Vượt Qua, Đức Chúa Jêsus biết giờ mình phải lìa thế gian đặng trở về cùng Đức Chúa Cha đến rồi; Ngài đã yêu kẻ thuộc về mình trong thế gian, thì cứ yêu cho đến cuối cùng".
Chúa Jêsus phán: "Ta sẽ giữ lễ Vượt Qua". Đây không phải là một Lễ Vượt Qua bình thường đâu, mà là thời điểm mấu chốt trong chức vụ của Chúa Jêsus và trong lịch sử cứu chuộc. Luca 22:15 cung ứng sự căng thẳng nầy: "Ngài phán rằng: Ta rất muốn ăn lễ Vượt Qua nầy với các ngươi trước khi ta chịu đau đớn".
Vì vậy, họ liền ra đi và "làm y như lời Chúa Jêsus đã dạy". Người xách vò nước kia đã chỉ cho họ thấy "một cái phòng lớn trên lầu có đồ đạc sẵn sàng" (Mác 14:14). Ở đó, họ "dọn lễ Vượt Qua". Chúng ta không biết Chúa Jêsus đã làm gì trong cả ngày hôm ấy. Có lẽ đấy là ngày cầu nguyện căng thẳng lắm hay phút sau cùng ra huấn thị cho các môn đồ kia.
B. Các yếu tố của Lễ Vượt Qua (câu 20).
Giờ đây "đến tối" Chúa Jêsus cùng các môn đồ kia đến tại phòng cao. Ở đó "Ngài ngồi ăn với mười hai sứ đồ" dự kỳ lễ Vượt qua theo truyền thống. Họ cùng nhau bẻ bánh.
Cung cách dự lễ Vượt Qua như thế nầy như ngược lại với lễ Vượt Qua nguyên thủy. Ở Ai cập, thế hệ của Môise đã ăn trong vội vã, đứng dậy sẵn sàng ra đi (Xuất Êdíptô ký 12:11). "Ngồi ăn" có nghĩa là "dựa lưng". Đối với các môn đồ và những người Do thái khác, Lễ Vượt Qua là một ngày lễ của sự vui mừng, giống như Lễ Giáng Sinh hay Lễ Cảm Tạ đối với chúng ta vậy.
Bữa ăn bắt đầu với việc dọn rượu ra từ một cái chén thông thường. Đây là cái chén đầu tiên trong 4 cái chén đã được trao tay. Truyền khẩu cho biết rằng họ đã đổ rượu ra để giữ cho ai đó không làm mất tính thiêng liêng bữa ăn trong tình trạng say sưa.
Kế đó, đã có việc rửa theo nghi thức, trong đó việc rửa hai bàn tay tượng trưng cho nhu cần làm sạch tấm lòng theo cách thuộc linh. Luca 22:24 ghi lại rằng phát sinh tại nơi ấy "Môn đồ lại cãi lẫy nhau, cho biết ai sẽ được tôn là lớn hơn hết trong đám mình". Chúa Jêsus "đứng dậy…cởi áo ra, lấy khăn vấn ngang lưng mình. Kế đó, Ngài đổ nước vào chậu, và rửa chơn cho môn đồ, lại lấy khăn mình đã vấn mà lau chơn cho…" (Giăng 13:4-5). Chúa Jêsus đã hành động với sự thấp hèn của một tôi tớ. Chẳng có một đầy tớ nào được thuê để lo làm công việc nầy. Các môn đồ quá kiêu ngạo không thể phục vụ nhau theo cung cách nầy. Vì vậy Con Đức Chúa Trời đã ngồi xuống rửa hai bàn chơn bẩn thỉu của con người. Làm vậy, gồm có cả sự hạ mình thanh sạch và cũng là một lời quở trách đối với sự kiêu căng của các môn đồ. Ngài phán: "Vì ta đã làm gương cho các ngươi, để các ngươi cũng làm như ta đã làm cho các ngươi" (Giăng 13:15).
Tiếp đến là việc ăn rau đắng. Rau đắng và bánh không men được nhúng trong một cái đĩa charoseth, một hỗn hợp gồm các thứ trộn sau đây: lựu, táo, chà là, cá, nho khô, và giấm. Đây là biểu tượng cho gạch và hồ mà người Do thái đã sử dụng trong lao động nô lệ của họ tại Ai cập.
Cái chén thứ hai khi ấy đã được trao tay. Ở điểm nầy, theo truyền khẩu đứa con nhỏ nhất đưa ra bốn câu hỏi và trả lời phản ảnh truyện tích Xuất Ai cập.
Kế đó là ca hát các Thi thiên. Theo truyền thống các Thi thiên Hallel (Thi thiên 113-118) đã được họ hát lên. Hai Thi thiên đầu tiên thường được hát lên ở đây.
Thế rồi thịt chiên nướng sẽ được mang tới và dọn ra. Vị chủ nhà một lần nữa rửa tay mình rồi bẻ bánh không men chuyền đi và ăn với thịt nướng chiên con.
C. Kẻ phản bội không dự Lễ Vượt Qua (các câu 21-25).
Có lẽ ngay tại thời điểm nầy hay sớm hơn trong kỳ lễ, Chúa Jêsus đã phán ra một việc khiến cho một cơn ớn lạnh chạy dọc theo xương sống của từng môn đồ một. Ấy là "khi đương ăn" Chúa Jêsus phán: "một người trong các ngươi sẽ phản ta". Cho tới giờ phút nầy, đây là lúc tiệc tùng vui vẻ nhất. Dường như họ không màng tới sứ điệp của Ngài nói tới sự chết. Bối cảnh ấy liền im lặng như tờ.
Chúa Jêsus đã nói cho họ biết rằng Ngài sẽ bị "nộp trong tay người ta" (Mathiơ 17:22; đối chiếu 20:18), nhưng đây là lần đầu tiên Ngài nói rằng kẻ phản bội sẽ là một trong 12 người.
"Phản bội" là một từ Hy lạp có ý nói tới "giao tội phạm để chịu trừng phạt”. Mathiơ 4:12 sử dụng chính từ ngữ ấy để mô tả Giăng Báptít đã bị tống vào ngục tối.
Lời nói ấy làm cho họ phải quặn thắt khi nghĩ rằng kẻ phản bội đã có mặt giữa vòng họ. Thay vì chỉ ngón tay vào nhau, mỗi người đã xét lòng mình trước tiên. Họ "lấy làm buồn bực lắm”. Họ bắt đầu hỏi Chúa: "Lạy Chúa, có phải tôi không?"
Chúng ta hãy đọc hai phân đoạn Kinh Thánh nói về Đấng Mêsi từ sách Thi thiên, 55:12-1441:9. Mặc dù David đang than khóc hành động phản bội của bạn hữu mình, lời lẽ của ông đã chỉ ra Chúa Jêsus. Chúa Jêsus nói lớn tiếng lời lẽ đó ở trong Giăng 13:18: "Ta không nói về các ngươi hết thảy, ta biết những kẻ ta đã lựa chọn; nhưng lời nầy trong Kinh Thánh phải được ứng nghiệm: Người ăn bánh ta, dở gót nghịch cùng ta".
Khi ấy Chúa Jêsus phán: "Kẻ nào để tay vào mâm với ta, ấy là kẻ sẽ phản ta". Hết thảy họ đều đã làm điều ấy trong bữa ăn. Ở vùng Trung đông, ăn một bữa ăn với ai đó là công bố ra một tình bạn rất thân tình.
Sau khi bảo đảm với họ rằng mọi sự đều nằm trong kế hoạch tối cao của Ngài, Chúa Jêsus phán: "Con người đi, y theo lời đã chép về Ngài", khi đề cập tới các Thi thiên mang tính tiên tri đó. Sở dĩ như vậy không phải là vì mưu định của Giu-đa hay của người Do thái, mà là sự thể hiện lên tới tột đỉnh của lịch sử cứu chuộc.
Chúa Jêsus nói thêm: "song khốn nạn thay cho kẻ phản Con người! Thà nó chẳng sanh ra thì hơn!" Địa ngục tương lai của Giu-đa rất kinh khiếp đến nỗi tốt hơn là hắn đừng sanh ra đời (Hêbơrơ 10:26-29).
Giu-đa, kẻ bất tài đã đóng vai của mình thật trọn vẹn khi hắn lẫn tránh sự nghi ngờ bằng cách đưa ra câu hỏi: "Thưa thầy, có phải tôi chăng?" Chúa Jêsus phán: "Thật như ngươi đã nói". Những nhận xét nầy dường như đã được thốt ra bằng giọng nói thì thầm.
Chẳng có một điều gì trong cách xử sự của Chúa Jêsus đối với Giu-đa hay các hành động của Giu-đa tại điểm nầy làm chao đảo các môn đồ khác. Chúng ta hãy quay trở lại với Giăng 13:23-28. Thậm chí khi Chúa Jêsus trao mẫu bánh cho Giu-đa, họ chẳng hiểu chi hết.
Giăng 13:27 nói rất dứt khoát: "Quỉ Satan vào lòng người". Trong sự loạn nghịch, Giu-đa sau cùng trở thành quân cờ tối hậu của ma quỉ. Hắn không phải là một tín đồ đã sa ngã, mà là một công cụ của Satan, hắn chưa được chuộc!
Chúa Jêsus muốn kẻ phản bội rời khỏi phòng để Ngài có thể chia sẻ với các môn đồ chân chính của Ngài sự chuyển đổi từ bữa tiệc xưa cũ thành một giao ước mới.
II. Chúa Jêsus thiết lập Tiệc Thánh đầu tiên (các câu 26-30).
Lễ Vượt Qua đã được tưởng niệm gần 1500 năm rồi. Đây là nghi thức lễ xưa nhất trong các nghi thức của Cựu Ước. Nhưng đêm nay sẽ đánh dấu sự cuối cùng của Giao ước Cũ và phần khởi đầu của Giao ước Mới.
Câu 26 nói "khi đương ăn", nghĩa là bữa tiệc còn dang dở. Sau khi thịt chiên con được chuyền đi trên một cái chén khác, Chúa Jêsus "lấy bánh, tạ ơn rồi, bẻ ra đưa cho môn đồ mà rằng: Hãy lấy ăn đi, nầy là thân thể ta".
Đây là câu nói đáng phải giật mình, câu nói nầy rất giống với câu nói mà Ngài đã phán ở Giăng 6:53: "Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi không ăn thịt của Con người, cùng không uống huyết Ngài, thì chẳng có sự sống trong các ngươi đâu". Rõ ràng Chúa Jêsus có ý nói rằng bánh và chén đều là biểu tượng của thân và huyết của Ngài. Sự dạy nầy không hề đúng với giáo lý hoá thể (transubstantiation) của Công Giáo La Mã (giáo lý cho rằng bánh mì và rượu vang trong Lễ Tiệc Thánh do cúng tế đã biến thành thân thể và máu của Chúa Giêsu, tuy bề ngoài vẫn không thay đổi).
Chúa Jêsus giáng sinh tại thành Bết-lê-hem, "thành đầy bánh". Giống như không có chút men nào trong bánh dùng cho Lễ Vượt Qua, cũng vậy, chẳng có một tội lỗi nào được thấy có nơi Ngài. Giống như mana cung ứng sự sống trong đồng vắng, Chúa Jêsus phán: "Ta là bánh của sự sống; ai đến cùng ta chẳng hề đói, và ai tin ta chẳng hề khát".
Khi chúng ta nhớ đến Ngài lúc cầm lấy bánh Tiệc Thánh, chúng ta cũng dự phần vào đời sống của nhau. I Côrinhtô 10:17 chép: "Vì chỉ có một cái bánh, chúng ta dầu nhiều, cũng chỉ một thân thể; bởi chưng chúng ta đều có phần chung trong một cái bánh". Chúng ta gặp nhau trong mối thông công tại bàn tiệc của Ngài và rao giảng ơn cứu rỗi cho người chưa tin.
Kế đó, trong câu 27: "Ngài lại lấy chén, tạ ơn rồi, đưa cho môn đồ mà rằng: Hết thảy hãy uống đi". Dường như đây là cái chén thứ ba của Lễ Vượt Qua: "cái chén phước lành" như Phaolô gọi thế trong I Côrinhtô 10:16. Ngài làm cho họ phải choáng váng bởi câu nói: "vì nầy là huyết ta, huyết của sự giao ước đã đổ ra cho nhiều người được tha tội". Đối với người Do thái, đây là một sự ghê tởm vì luật pháp của họ cấm ăn thịt trộn với huyết.
Những giao ước quan trọng luôn luôn được phê chuẩn bằng huyết. Một con thú bị cắt ra làm hai, để nửa mỗi con một bên đối với nhau (Sáng thế ký 15:9-18).
Trải qua nhiều năm tháng hình thái thần bí đã xoay quanh huyết của Đấng Christ. Có người đã hình dung huyết ấy có nhiều điều siêu nhiên, nhưng Kinh Thánh chẳng nói gì giống như hình thái nầy. Chúng ta không được chuộc bởi tiểu cầu và huyết tương đã đổ ra từ thân của Chúa Jêsus, mà được chuộc bởi sự chết có tính cách hy sinh của Ngài vì tội lỗi chúng ta tiêu biểu bởi huyết của Ngài.
Chúa Jêsus muốn họ phải nhìn biết khi họ trông thấy Ngài đang đổ huyết ra và chịu chết trên thập tự giá, Ngài không phải là nạn nhân của quyền lực của người Do thái hay sự áp bức của người La mã, mà Ngài "bị nộp, theo ý định trước và sự biết trước của Đức Chúa Trời" (Công Vụ các Sứ Đồ 2:23).
Ngài phán với họ: "Ta phán cùng các ngươi, từ rày về sau, ta không uống trái nho nầy nữa, cho đến ngày mà ta sẽ uống trái nho mới cùng các ngươi ở trong nước của Cha ta". Không những Ngài muốn họ phải nhìn biết rằng sự chết của Ngài là chắc chắn, mà họ còn phải biết sự tái lâm của Ngài cũng sắp tới nơi rồi nữa. Một ngày kia, Ngài sẽ uống với chúng ta trong Vương Quốc Thiên Hi Niên!
Sau cùng, họ đã hát "thơ thánh" có lẽ là Thi thiên 118 rồi "đi ra mà lên núi, Ôlive".
Từ Lễ Vượt Qua, Chúa Jêsus là tượng trưng của chiên con của người Do thái, "Chiên Con của Đức Chúa Trời". Đến Tiệc Thánh, Ngài là tượng trưng của "bánh""chén".

***