MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Cái thấy
thuộc linh
Mathiơ 16:1-12
1. Là người Mỹ,
chúng ta đánh giá cao thị lực tốt. Chúng ta tốn khoảng 5 tỉ đôla mỗi năm cho những
người chuyên đo thị lực, bác sĩ nhãn khoa, kính đeo mắt, làm quen với giải phẩu
bằng laser và đặt kính thủy tinh thể. Một tỉ lệ nhỏ phần trăm dân cư của chúng
ta bị mù hoàn toàn. Ngược lại với nhiều người trong thế giới thứ ba và các nước
phát triển, ở đó nhiều, nhiều người đang chịu khổ vì tình trạng mù loà và thị lực
nghèo nàn.
2. Mác 10:46-52
cung ứng cho chúng ta câu chuyện nói về một người ăn xin mù có tên là “Batimê”. Ông ta nghe nói
Chúa Jêsus đang đi ngang qua thành Giêricô nên kêu lên: "Hỡi
Đức Chúa Jêsus, con vua Đa-vít, xin thương tôi cùng!" Mặc dù nhiều người
khác tìm cách làm cho ông ta phải im lặng, Chúa Jêsus đã nghe thấy và "dừng
lại". Ngài cho đòi ông ta đến rồi hỏi: "Ngươi muốn
ta làm chi cho ngươi?" Ông ta đáp: "Lạy Thầy,
xin cho tôi được sáng mắt". Chúa Jêsus phán: "Đi
đi, đức tin ngươi đã chữa lành ngươi rồi". Câu cuối cùng chép: "tức
thì người mù được sáng mắt", không những thấy về con mắt
thật, mà còn thấy về mặt thuộc linh nữa vì ông ta đã "đi
theo Đức Chúa Jêsus trên đường". Thật là quan trọng khi có
hai con mắt tốt để nhìn thấy rõ rệt, còn quan trọng hơn nữa khi có thể nhìn thấy
về mặt thuộc linh.
3. Chúa Jêsus đã đến
để ban cho chúng ta cái thấy về mặt thuộc linh (đọc Giăng
1:4-13).
4. Hết thảy mọi
người đều bị mù về mặt thuộc linh, không thể nhìn thấy nhu cần của họ về Đức
Chúa Trời. Tân Ước đề nghị ba lý do tại sao con người ta đều bị mù về mặt thuộc
linh.
A. Lý do thứ nhứt
là TỘI LỖI. Người ta chọn chối bỏ Đức Chúa Trời và chìu
theo tội lỗi. Chúa Jêsus đã phán trong Giăng 3:19: "Vả,
sự đoán xét đó là như vầy: sự sáng đã đến thế gian, mà người ta ưa sự tối tăm hơn
sự sáng, vì việc làm của họ là xấu xa".
B. Lý do thứ hai
là SATAN. Kẻ thù của chúng ta đang
hành động để che khuất sự sáng của Chúa Jêsus. II Côrinhtô 4:4 chép: "…cho
những kẻ chẳng tin mà chúa đời nầy đã làm mù lòng họ, hầu cho họ không trông thấy
sự vinh hiển chói lói của Tin Lành Đấng Christ, là ảnh tượng của Đức Chúa Trời".
C. Lý do thứ ba
là QUYỀN TỂ TRỊ. Đức Chúa Trời đang
nắm quyền tể trị. Khi loài người cứ khăng khăng kháng cự sự sáng của Đức Chúa
Trời, Ngài phó họ cho sự tối tăm vì cái tôi của họ đã lựa chọn. Chúa Jêsus đã
phán trong Luca 19:42: "Ước gì, ít nữa ngày nay, mầy đã hiểu
biết sự làm cho mầy được bình an! Song hiện nay những sự ấy kín giấu nơi mắt mầy".
5. Khi chúng ta xem xét phân
đoạn nầy, chúng ta sẽ tiếp thu các đặc điểm của tình trạng mù loà thuộc linh và
tình trạng của những người đã được ban cho cái thấy về mặt thuộc linh.
I. Một số người sẽ
ở lại trong tình trạng mù thuộc linh (các câu 1-4).
A. Họ
từ chối không chịu tin (câu 1).
1. Thứ nhứt, hãy để
ý là người "Pharisi
và Sađusê" đã đến với Chúa Jêsus. Hai nhóm người nầy là hai
nhóm đối ngược như mặt trời mặt trăng, hai kình địch về tôn giáo và chính trị.
2. Người "Pharisi" là những người bảo
thủ, những người chính thống trong đức tin của người Do thái. Nói chung họ xuất
thân từ giai cấp lao động và dân thường. Nan đề
của họ, ấy là họ đã đặt mọi lời truyền khẩu của các rabi ngang hàng với Kinh
Thánh. Họ là những người tin kính phân rẽ và kháng cự lại bất kỳ một sự đổi
thay nào trong Do thái giáo.
3. Người "Sađusê" thiên về tự do
tôn giáo. Họ bất chấp mọi sự dạy của các rabi lẫn Kinh Thánh. Họ theo đuổi chiều
hướng chính trị đích thực. Tiêu chuẩn trong tín điều của họ là chối bỏ sự sống
lại, thiên sứ và sự bất tử. Họ tin rằng tôn giáo là một bộ luật đạo đức. Họ xuất
thân từ tầng lớp quí tộc Do thái. Từ các đẳng cấp của họ, có nhiều thầy tế lễ
thượng phẩm và các thầy chủ tế.
4. Điều đáng ngạc
nhiên, ấy là hai nhóm đối ngược nầy đã tìm được sự hiệp một trong sự họ từ chối
không chịu tin theo Chúa Jêsus. Đây là đỉnh cao cho những người Cộng hoà và Dân
chủ trong quốc hội tìm được tiếng nói chung nhằm vào một vấn đề. Người "Pharisi" vốn thù ghét Ngài
vì Ngài loại bỏ mọi lời truyền khẩu của họ. Người "Sađusê" thù ghét Ngài vì
Ngài cứ khăng khăng về sự thuộc linh. Giờ đây, họ là bạn đồng công trong sự vô
tín.
5. Một phân đoạn
tương ứng là Mác 8.11 cho thấy rằng người "Pharisi" đã ra sức "thử” Chúa Jêsus. Thay
vì nhìn nhận tình trạng mù loà thuộc linh của họ rồi chạy đến với Chúa Jêsus để
được sáng láng, họ đã đến trực tiếp với kẻ thù tệ hại nhất của họ, là người "Sađusê" để xin giúp đỡ và
ủng hộ.
6. 2.000 năm đã
trôi qua và vẫn có những vụ việc “vũ như cẩn”. Vẫn có hạng người
rất tôn giáo, họ từ chối không chịu tin theo Chúa Jêsus vì lẽ thật của Ngài loại
bỏ mọi truyền thống của họ. Vẫn có hạng người tự do tôn giáo, họ từ chối không
chịu tin theo Chúa Jêsus vì khi tin theo Ngài họ phải tin những điều mà họ
không nhìn thấy. Cả hai đều bị mù thuộc linh trong sự vô tín của họ.
B. Họ
bất chấp những lời cảnh cáo của Đức
Chúa Trời (các câu 2-4a).
1. Cả hai nhóm đã
đến đặng "thử Ngài".
2. "Thử" có nghĩa là tìm
cách. Cách dùng khác của từ nầy trong Tân Ước, Hêbơrơ 11:9, ở đây tác giả nói tới
người Ai cập "thử" đi qua Biển Đỏ. Chính người
Ai cập tìm cách thắng hơn Môise và người Hêbơrơ, người "Pharisi
và Sađusê" đã tìm cách thắng hơn Chúa Jêsus.
3. Sự họ thử Chúa
là xin Ngài: "làm cho xem một dấu lạ từ trời". Họ đã chứng kiến
nhiều dấu lạ hay nhiều việc làm lạ lùng rồi. Họ đã trông thấy Ngài chữa lành kẻ
đau, khiến cho người mù được thấy, khiến cho kẻ què đi được, đuổi nhiều quỉ dữ
và nhiều việc làm siêu nhiên khác.
4. Họ không chối
bỏ quyền phép siêu nhiên của Ngài. Thực vậy trong 12.24 họ đã gán quyền phép của
Ngài cho Satan. Một sự mê tín của người Do thái, ấy là ma quỉ có thể làm ra nhiều
phép lạ trên đất, nhưng chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể làm ra các dấu lạ ở
trên trời.
5. Họ muốn xem "một
dấu lạ từ trời" hay từ trên bầu trời. Họ nghĩ điều cầu xin nầy vượt
quá khả năng của Ngài. Họ muốn làm cho quyền phép Ngài phải bị hạ thấp giống như
không đến từ Đức Chúa Trời vậy.
6. Cái điều họ
không trông thấy vì cớ tình trạng mù loà thuộc linh của họ, ấy là chính mình
Chúa Jêsus là một "dấu lạ đến từ trời". Khi Simêôn nhìn
thấy Đấng Mêsi lúc 8 tuổi trong đền thờ, ông đã nói tiên tri: "Đây,
con trẻ nầy đã định làm một cớ cho nhiều người trong Y-sơ-ra-ên vấp ngã hoặc dấy
lên, và định làm một dấu gây nên sự cãi trả" (Luca 2.34).
7. Có nhớ Pharaôn
và Môise không? Môise càng đưa ra những dấu lạ về quyền phép của Đức Chúa Trời,
thì tấm lòng của Pharaôn càng trở nên chai cứng hơn.
8. Nhà vô thần người
Pháp là Voltaire công bố: "Cho dù một phép lạ được làm ra
công khai ngay khu chợ trước hàng ngàn người chứng kiến, tôi tin vào nhận thức
của tôi hơn là công nhận một phép lạ".
9. Một tấm lòng
con người đặt trên sự tăm tối sẽ càng tối tăm thêm. Con mắt thuộc linh nào chối bỏ sự sáng sẽ bị
sự sáng che khuất đi.
10. Để trả lời
cho họ, Chúa Jêsus chỉ cho họ thấy các dấu lạ đã có rồi ở trên trời. Ngài phán:
"Khi chiều tối đến, thì các ngươi nói rằng: sẽ tốt trời, vì trời
đỏ. Còn sớm mai, thì các ngươi nói rằng: Hôm nay sẽ có cơn dông, vì trời đỏ và
mờ mờ" (các câu 2-3a). Điều nầy tương tự với những thủy thủ xưa nói:
"Trời đỏ lúc ban đêm, thủy thủ vui mừng. Trời đỏ ban ngày,
lời cảnh cáo của thủy thủ".
11. Ngài gọi họ
là "giả hình". Ngài phán: "Các
ngươi biết phân biệt rõ sắc trời, mà không phân biệt được dấu chỉ thì giờ ư!" Cho phép tôi đóng
ngoặc đơn; "Các ngươi được định cho làm lãnh đạo dân sự của Đức
Chúa Trời có thể hiểu được một số lời cảnh báo thông thường bằng cách nhìn xem
bầu trời. Dù vậy, các ngươi lại mù loà, các ngươi không thể nhìn thấy Đức Chúa
Trời đang làm gì ở chung quanh các ngươi!"
12. Hãy chú ý mọi
sự ở chung quanh chúng ta xem, người ta đang thêm lên tri thức và sự hiểu biết.
Chúng ta đang sống trong một kỹ nguyên thông tin. Kỹ thuật đang chạy nước rút ở
một tốc độ ngày càng nhanh. Chúng ta biết nhiều hơn bất cứ một thế hệ nào đã đến
trước chúng ta, nhưng chúng ta lại chẳng màng gì tới các vụ việc của Đức Chúa
Trời.
13. Chúa Jêsus hiểu
rõ mọi động lực của họ. Ngài phán: "dòng dõi hung ác gian
dâm nầy xin một dấu lạ". Họ muốn thấy một dấu lạ vì họ đã không chịu
tin. Họ không tin thậm chí có một dấu lạ nào khác. Mác nói Chúa Jêsus đã “than
thở trong lòng".
14. Dấu lạ duy nhất
họ sẽ nhận được là "dấu lạ của tiên tri Giôna". Muốn hiểu rõ điều
nầy, hãy trở lại với 12:9-41. Chỗ nầy nói tới sự chết, sự
chôn và sự sống lại của Chúa Jêsus. Tất nhiên là họ sẽ từ chối không tin dấu lạ
ấy. 28:2-14 cho chúng ta biết rằng họ đã trả tiền cho mấy tên lính đi nói thân
thể phục sinh của Ngài đã bị lấy cắp.
C. Họ
đã bị Đức Chúa Trời bỏ (câu 4b).
1. Với câu nói
sau cùng đó, Chúa Jêsus đã "bỏ họ mà đi". Từ Hy lạp ở đàng
sau chữ "bỏ" có nghĩa là "bỏ
hoàn toàn". Đây cũng là một chữ được sử dụng để mô tả Mathiơ đang
rời bỏ công ăn việc làm của mình tại sở thuế vụ và những kẻ tố cáo người đờn bà
phạm tội tà dâm quả tang đang bỏ đi. Từ nầy có nghĩa là "tốt
nhất là quên đi".
2. Vì cớ tình trạng
mù loà về mặt thuộc linh cố ý của họ, vì họ không chịu tin, Chúa Jêsus đã bỏ họ.
Ngài sẽ không ban cho họ một chút ân điển nào hết.
3. Dù Đức Chúa Trời
là Đấng "giàu lòng thương xót" Ngài sẽ hoàn
toàn quên những kẻ cố tình ở trong tình trạng mù loà thuộc linh (Rôma
1:24-28). Sự phán xét chắc chắn giáng xuống.
II. Một số người sẽ
được ban cho sáng láng về mặt thuộc linh (các câu 5-12).
A. Họ
theo sau Chúa Jêsus (câu 5).
1. Sau khi Chúa Jêsus
bỏ người "Pharisi và Sađusê" trong chỗ tối tăm
thuộc linh của chính họ, các môn đồ Ngài đã đi theo Ngài "đến
bờ bên kia" của Biển Galilê.
2. Đừng nhắm vào
tầm quan trọng sự cung kính của họ. Trọn đời sống của họ, họ đã được truyền cho
phải tôn trọng và tin theo hệ thống tôn giáo mà người "Pharisi
và Sađusê" đã tiêu biểu cho. Bằng cách đi theo Chúa Jêsus, họ đang
chối bỏ lai lịch văn hoá của riêng họ. Họ đã làm thế vì họ đã nhìn thấy sự sáng
và muốn được sáng láng càng hơn!
3. Không phải người
nào đã nhìn thấy sự sáng của Chúa Jêsus đều trung tín đi theo Ngài đâu! Hãy mở
ra Giăng 6:66-69. Quí vị gần như
trông thấy sự sáng láng thuộc linh của họ càng sắc bén và rõ ràng hơn khi Phierơ
hỏi: "Lạy Chúa, chúng tôi sẽ đi theo ai? Ngài có lời của sự
sống đời đời".
B. Họ
lắng nghe Chúa Jêsus cách cẩn thận
(các câu 6-11).
1. Khi họ xếp
hàng trên bãi biển, trời đã xế chiều, họ chẳng có một thứ đồ ăn hay “bánh” nào hết. Trời sắp
tối và bao tử của họ bắt đầu cào lên vì đói.
2. Có vài thành
phố bên bờ hồ đó và chắc chắn không có một cửa hàng ăn McDonald hay một cửa
hàng tiện nghi nào cả để họ có thể mua thức ăn ở đó. Họ đã đối diện với một buổi
tối không có đồ ăn. Gần như tôi có thể nghe thấy họ đang càu nhàu vì đói bụng.
3. Chúa Jêsus đã
sử dụng tình hình nầy để dạy dỗ. Ngài phán: "Hãy giữ
mình cẩn thận về men của người Pha-ri-si và Sa-đu-sê". Các môn đồ
không hiểu chi hết. Họ lại càng đâm lo ngay lúc ấy với những cái bụng đói của họ
hơn là những lẽ thật thuộc linh mà Chúa Jêsus sắp nói với các cấp lãnh đạo tôn
giáo. Họ đáp: "Đây là vì chúng ta không đem bánh theo".
4. Chúng ta thường
rất giống với họ. Đang khi chúng ta không đói khát về bánh, chúng ta khao khát
các nhu cần khác trong cuộc sống, một việc làm mới, một chiếc xe hơi tiện dụng
hơn, một ngôi nhà rộng hơn, v.v…Thay vì nhìn thấy bức tranh lớn, các lẽ thật
thuộc linh và đời đời mà Đức Chúa Trời muốn dạy dỗ chúng ta, chúng ta lại lo lắng
về các nhu cần tạm thời thuộc về đời nầy.
5. Chúa Jêsus
không quan tâm về việc thiếu một bữa ăn như họ. Ngài quan tâm về lẽ thật của
Tin Lành không bị vấy bẩn bởi "men" của các cấp lãnh
đạo tôn giáo.
6. Ngài gọi họ "hỡi
kẻ ít đức tin". Họ không quên mục tiêu vì họ
thiếu thông tin hay vì họ không nhanh trí. Họ bỏ quên mục tiêu vì họ không luyện
tập “đức tin”.
7. Chúa Jêsus nhắc
cho họ nhớ rằng Ngài đã cho "năm ngàn người ăn" với "năm
cái bánh" và họ đã thâu lại dư 12 giỏ bánh đầy. Mới đây Ngài đã
cho "bốn ngàn người ăn" với "bảy
ổ bánh" và họ "thâu lại bảy giỏ đầy bánh thừa" (15:37).
Nếu Chúa Jêsus muốn, Ngài sẽ dễ dàng tạo ra nhiều thực phẩm hơn là họ từng ăn nữa.
8. Họ đã nương cậy
vào chính mình họ hơn là nhơn đức tin tin cậy Chúa Jêsus. Chúng ta thường rơi
vào cái bẩy ấy dường bao!
9. Với sự toan liệu
như thế, Chúa Jêsus đã lèo lái nhắm vào trọng tâm của vấn đề. Ngài phán thật dứt
khoát: "nhưng hãy giữ mình về men của người Pha-ri-si và Sa-đu-sê".
10. "Men" làm cho bánh dậy
lên trước khi nướng. Tuy nhiên, phương thức duy nhất mà người xưa đã có khi tạo
ra men là giữ yên mẻ bột nhỏ từ ngày trước. Mẻ bột ấy sẽ mau chóng thấm vào đống
bột mới và làm cho bột dậy lên. Phaolô đã nói trong I Côrinhtô 5:6: "Anh
em há chẳng biết rằng một chút men làm cho cả đống bột dậy lên sao?"
11. Môise đã dạy
cho dân Hêbơrơ biết sử dụng bánh không men trong dịp Lễ Vượt Qua vì men tiêu biểu
cho tội lỗi. Chúa Jêsus cũng đã kèm lẽ đạo ấy vào với Tiệc Thánh của Ngài.
12. Men là ảnh hưởng
của tội lỗi. Chúa Jêsus muốn các môn đồ Ngài sẽ trở thành hạng sứ đồ và là nền
của Hội thánh không để cho Tin Lành bị ảnh hưởng bởi sự dạy tội lỗi của người "Pharisi
và Sađusê".
13. "Men
của người Pharisi" là men của sự giả hình và sự họ xem trọng truyền khẩu
hơn là Lời của Đức Chúa Trời. Thư tín của Phaolô gửi cho người Galati đã cảnh cáo chống lại những người theo
Do thái giáo, là những người tìm cách thêm Luật pháp Môise vào Tin lành.
14. "Men
của người…Sađusê" là men của tôn giáo theo kiểu tự do, đề kháng sự
thuộc linh. Thư tín viết cho người thành Côlôse cảnh cáo coi chừng bị dối gạt bởi
"triết lý hư không".
15. Họ đã nghe
theo Chúa Jêsus. Họ có thể thấy về mặt thuộc linh, nhưng họ đã tìm cách thấy nhiều
hơn. Con người với cái thấy thuộc linh không những tìm kiếm Chúa Jêsus, họ bám
luôn nơi Lời của Ngài.
C. Họ học hỏi từ Chúa Jêsus (câu 12).
1. Có thể lúc đầu
các môn đồ tưởng rằng Chúa Jêsus đang dạy họ đừng mua bánh từ các cấp lãnh đạo
tôn giáo. Tuy nhiên, họ đã nhất thời hiểu sai, Chúa đã soi sáng cho sự hiểu của
họ.
2. Sau cùng,
trong câu 12 các môn đồ: "hiểu rằng Ngài chẳng bảo giữ mình về
men làm bánh, nhưng về đạo của người Pha-ri-si và Sa-đu-sê".
3. Chúng ta cần
phải trụ lại nơi Lời của Ngài và lắng nghe Thánh Linh Ngài cho tới chừng nào
chúng ta cũng “hiểu rõ”. Ngài ban cho chúng ta nhiều sự sáng láng thuộc
linh khi chúng ta bằng lòng nhận lãnh.
Có một cô gái mù
người Pháp được người ta biếu cho một quyển Tin lành Mác. Cô gái đến với đức
tin nơi Đấng Christ bằng cách đọc sách ấy thật nhiều lần. Cô ấy đọc sách ấy nhiều
đến nỗi mấy đầu ngón tay của cô bị chai cứng và không còn cảm giác nơi các dấu
chấm nổi cộm kia nữa. Vì vậy, cô gái quyết định lột bớt lớp da bị phồng kia để
mấy ngón tay của cô sẽ được mẩn cảm hơn. Khi làm như thế, mấy sợi thần kinh da
tay của cô bị hỏng hết. Thấy không xong, cô cầm lấy quyển sách lên hôn từ biệt
nó. Chỉ khi ấy cô gái mới hay rằng đôi môi của cô còn mẩn cảm hơn cả mấy ngón
tay nữa. Đức Chúa Trời luôn luôn tìm một phương thức để soi rọi sự
sáng vào trong tấm lòng của bất cứ ai chịu tìm kiếm Ngài.
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét