MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Kỷ
luật theo Kinh Thánh
Mathiơ 18:15-20
1. Phân đoạn Kinh Thánh của
chúng ta nằm giữa sự dạy của Chúa Jêsus liên quan tới con cái của Đức Chúa Trời.
Chương nầy mở đầu với Cứu Chúa gọi một "đứa trẻ" đến và có lẽ đang
bồng nó bên hông Ngài "ở giữa" các môn đồ.
Ngài dạy cho họ biết rằng trừ phi chúng ta trở nên như "đứa trẻ" chúng ta sẽ "chẳng được
vào nước thiên đàng đâu" (câu 3). Ngài cũng dạy rằng người nào
"trở
nên khiêm nhường như đứa trẻ" sẽ là "lớn hơn
hết trong nước thiên đàng". Trong các câu 6-9, Chúa
Jêsus cảnh cáo những ai gây cho "những đứa nhỏ nầy" là con cái thuộc
linh của Đức Chúa Trời, "sa vào tội lỗi" hay sa ngã.
Trong các câu 10-14, Chúa Jêsus dạy rằng chúng ta không nên "khinh dể
một đứa nào trong những đứa trẻ nầy", chúng ta đừng coi thường
bất kỳ người nào trong vòng con cái của Đức Chúa Trời. Thậm chí đối với những
người đã lạc sai, Chúa Jêsus Đấng Chăn của dân Ngoại, sẽ tìm kiếm và đem họ về
nhà. Đức Chúa Trời không muốn bất kỳ ai trong số họ sẽ bị "hư mất" hoặc giả họ trở
nên vô dụng cho Nước Trời.
2. Phân đoạn Kinh Thánh nầy
dạy dỗ với đề tài kỷ luật, sửa phạt con cái của Đức Chúa Trời khi họ sai lạc.
Là bậc làm cha mẹ, chúng ta hiểu tầm quan trọng của kỷ luật. Châm ngôn 13:24
chép: "Người nào kiêng roi vọt ghét con trai mình; Song ai thương con ắt
cần lo sửa trị nó". Khi con cái chúng ta loạn
nghịch, chúng ta sử dụng kỷ luật để đem chúng trở lại với sự vâng phục. Kỷ luật
là một công cụ cho sự dạy dỗ. Ngay cả từ “kỷ luật” (disciple) đã bắt rễ từ chữ
“chức
năng môn đồ” (discipleship).
3. Là Cha chúng ta ở trên
trời, Đức Chúa Trời kỷ luật chúng ta, là con cái của Ngài. Châm ngôn 3:11-12
chép: "Hỡi con, chớ khinh điều sửa phạt của Đức Giê-hô-va, chớ hiềm lòng
khi Ngài quở trách; Vì Đức Giê-hô-va yêu thương ai thì trách phạt nấy. Như một
người cha đối cùng con trai yêu dấu mình". Đức Chúa Trời sử dụng mọi
hoàn cảnh để đem chúng ta trở lại khi chúng ta lạc sai. Hêbơrơ 12:7-8 chép:
"Ví bằng anh em chịu sửa phạt, ấy là Đức Chúa Trời đãi anh em như
con, vì có người nào là con mà cha không sửa phạt? Nhưng nếu anh em được khỏi sự
sửa phạt mà ai nấy cũng phải chịu, thì anh em là con ngoại tình, chớ không phải
con thật".
4. Không những Đức Chúa Trời
kỷ luật con cái Ngài, mà Ngài còn đưa hết thảy các tín đồ vào trong vòng kỷ luật
nữa. Trong phân đoạn nầy Chúa Jêsus dạy chúng ta mọi điều phải làm "nếu anh
em ngươi phạm tội". Chúng ta hãy tiếp thu ba lẽ thật về kỷ luật theo
Kinh Thánh.
I. Kỷ luật theo
Kinh Thánh rất cần thiết.
Lưu ý bốn lý do
để thực thi kỷ luật.
A.
Kỷ luật giữ cho Hội Thánh được tinh sạch.
1. Đức Chúa Trời rất nghiêm khắc về sự tinh sạch. Ngài muốn chúng ta sống
trong sự thánh khiết. Ngài phán trong I Phierơ 1:16: "Hãy nên
thánh, vì ta là thánh" (đối chiếu Lêvi ký 11:44).
2. Chúng ta nghe rao giảng và dạy dỗ nhiều về tình yêu thương, ân điển,
sự thương xót và ơn tha thứ của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, có một sự thiếu sót lớn
trong sự dạy dỗ về mong muốn của Ngài về tình trạng thanh sạch. Đức Chúa Trời
ao ước rằng con cái Ngài phải "đi trong sự sáng cũng như chính mình
Ngài ở trong sự sáng" (I Giăng 1:7). Đức Chúa Trời muốn chúng
ta phải đương diện với tội lỗi của mình. Ngài muốn sự thánh khiết chớ không muốn
sự giả hình.
3. Trong Công Vụ các Sứ Đồ 5:1-11, chúng ta học
biết về tội lỗi của A-na-nia và Sa-phia-ra, hai Cơ đốc nhân đầu tiên đã nói dối
Đức Thánh Linh mà giữ lại phần lẽ ra phải dâng hiến cho Đức Chúa Trời. Đức Chúa
Trời đã đánh họ, cả hai đều ngã chết. Câu 11 đặc biệt chép: "Cả
Hội thánh đều rất sợ hãi, cho đến người nào nghe tin cũng vậy".
4. Vì người thành Côrinhtô với tình trạng bất kỉnh của họ, đã làm ô uế
Tiệc Thánh của Chúa tại các buổi thờ phượng chung, Đức Chúa Trời đành phải đưa đến
kỷ luật nghiêm khắc. I Côrinhtô 11:30-31 chép: "Ấy vì cớ đó mà trong
anh em có nhiều kẻ tật nguyền, đau ốm, và có lắm kẻ ngủ. Nếu chúng ta biết xét đoán
lấy mình, thì khỏi bị xét đoán". Khiến cho họ phải sợ hãi
tội lỗi, điều nầy đã bảo vệ tình trạng tinh sạch của các Hội Thánh nầy.
5. Mặc dù Đức Chúa Trời đưa ra kỷ luật thiên thượng, Ngài mong mỏi chúng
ta phải dè chừng bản thân mình. Galati 6:1 chép: "Hỡi anh em, ví bằng
có người nào tình cờ phạm lỗi gì, anh em là kẻ có Đức Thánh Linh, hãy lấy lòng
mềm mại mà sửa họ lại; chính mình anh em lại phải giữ, e cũng bị dỗ dành chăng".
B.
Kỷ luật cung ứng sự bảo hộ cho người tín đồ.
Khi chúng ta xa cách Chúa và sa vào tội lỗi, khi chúng ta ý thức mình đang
đi trong tối tăm, chúng ta đang đặt bản thân mình và những người quanh chúng ta
vào sự nguy hiểm.
Một vị Mục sư bạn, ông lớn lên ở Nam Florida, thuật lại câu chuyện khi
ông còn là một thiếu niên, ông và nhóm bạn cùng lội qua một con rạch. Mẹ ông
trông thấy ông và hoàn toàn làm cho ông phải lúng túng bằng cách kêu la lên buộc
hết thảy phải lên khỏi nước. Khi ông nói với mẹ mình về sự lúng túng mà ông đã
có, bà nói: "Con ơi, có nhiều cá sấu trong con rạch đó lắm. Mẹ chỉ bảo vệ
cho con và các bạn của con đấy thôi".
C.
Kỷ luật khẳng định giá trị của từng tín đồ.
1. Các câu 12-13 mô tả Chúa Jêsus là một người chăn, để 99 con lại
rồi đi tìm một con đi lạc.
2. Chúng ta đừng "khinh dể" các tín hữu
khác vì họ thuộc về Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không muốn "một đứa
nào trong những đứa trẻ nầy phải hư mất" hoặc phải vô dụng đối với Nước
Trời. Kỷ luật của Đức Chúa Trời là bằng chứng cho tình yêu thương sâu rộng của
Ngài.
D.
Kỷ luật duy trì mạng lịnh của Đức Chúa Trời.
1. Quở trách tín hữu khác là điều rất khó. Nó đòi hỏi lòng can đảm và đức
tin. Tôi nghĩ đây là lý do tại sao có rất ít kỷ luật trong các Hội Thánh ngày nay.
Chúng ta đã e sợ. Thôi thì ngồi lê đôi mách về tội lỗi của ai đó còn an toàn hơn
là lấy lòng yêu thương quở trách họ.
2. Dù vậy, Đức Chúa Trời không ban kỷ luật cho chúng ta như một sự lựa
chọn đâu. Đây là một mạng lịnh. Chúa Jêsus phán trong câu 15: "Nếu anh em
ngươi phạm tội cùng ngươi, thì hãy trách người…".
II.
Kỷ luật theo Kinh Thánh có một quá trình (các câu 15-17).
A.
Bước #1. Một sự gặp gỡ riêng tư (câu 15).
1. Ai là người phải chịu kỷ luật? Đó là một "anh em" hay một tín hữu,
chớ không phải người chưa tin Chúa, mà là một tín đồ hẳn hòi. Bất kỳ một tín đồ
nào sa vào tội cố ý liên tục, chính là người phải được gặp gỡ. Kể cả hết thảy
chúng ta, Mục sư cũng không được miễn trừ. Mỗi một người chúng ta phải được gặp
gỡ khi chúng ta phạm tội.
2. "Tội" ở đây là từ ngữ thông thường trong Tân ước nói tới
tội lỗi. Về cơ bản từ nầy có nghĩa là "bỏ qua dấu hiệu". Hiển nhiên là
chúng ta không phải là cảnh sát hay thám tử của nhau. Chúng ta cần phải nhận
chân những tội lỗi có tính huỷ diệt liên tục nơi mỗi người khác.
3. Điều nầy có thể gây mích lòng nhau. Một số bản dịch nói trong câu 15:
"nếu
anh em ngươi phạm tội nghịch cùng ngươi…". Tuy nhiên,
câu nầy nói tới hết thảy mọi người. Bất kỳ một tội lỗi nào hiển nhiên trong đời
sống quí vị là tội lỗi nghịch lại Đức Chúa Trời và "nghịch lại quí vị". I Côrinhtô 5:6
chép: "Anh em há chẳng biết rằng một chút men làm cho cả đống bột dậy lên
sao?"
4. Quở trách cần phải diễn ra cách mau chóng, ngay sau khi sự việc đã được
biết rõ. Tại sao vậy? Nếu chúng ta để cho tội lỗi cứ tiến triển, nó lớn lên và
khó mà thắng hơn được nó. Trong trường hợp mích lòng cá nhân, thời gian trôi
qua giận dữ sẽ nổi lên, tức tối và cay đắng thấm dần vào mối giao hảo.
5. Ai sẽ đối diện với người anh em phạm tội? Câu trả lời là bất cứ tín đồ
nào. Đây không phải là bổn phận của Mục sư hay các cấp lãnh đạo Hội Thánh. Đây
là bổn phận của quí vị.
6. "Trách" ra từ một động từ Hy lạp có nghĩa là "đem ra ánh
sáng" hay giúp cho người nhìn thấy lỗi lầm của người. Đôi khi chúng ta không
nhận ra lỗi lầm nào đó.
7. Chúa Jêsus phán: "như người nghe lời, thì ngươi được anh em lại". Hầu hết kỷ luật
của chúng ta đều sẽ kết thúc với một cấp độ riêng tư. "Như người nghe
lời", thì chẳng cần ai khác nhìn biết. Quí vị cần phải giữ kín vụ việc theo
cách riêng.
8. Mục đích của chúng ta sẽ luôn luôn là "được" anh em lại. Đây
là một từ có ý nói tới việc làm lợi hay kiếm được tài chánh nơi khu chợ. Mọi
con cái Đức Chúa Trời đều có giá trị. Khi một người được phục hồi, nước Trời đã
"được
lại" hay có lợi.
9. Chúng ta sẽ bị cám dỗ khi suy nghĩ: "Đây là công việc của
Ngài. Tôi là ai mà dính dáng vào? Đừng xét đoán thì không bị xét đoán, có đúng
không? Người ấy là trách nhiệm của Đức Chúa Trời". Biết bao
nhiêu lần Thân Thể của Đấng Christ đã gánh chịu nhiều mất mát thay vì được lại
vì dân sự của Đức Chúa Trời không quan tâm đủ để dính dáng vào.
10. Ai đủ tư cách đối diện với một anh em phạm tội?
a. Thứ nhứt, đấy là người có một tinh thần yêu thương, tử tế. Một lần nữa,
Galati 6:1 chép: "Hỡi anh em, ví bằng có người nào tình cờ
phạm lỗi gì, anh em là kẻ có Đức Thánh Linh, hãy lấy lòng mềm mại mà sửa họ lại;
chính mình anh em lại phải giữ, e cũng bị dỗ dành chăng".
John Newton đã viết: "Khi người ta sống phải lẽ với Đức
Chúa Trời, họ có khuynh hướng nghiêm khắc với bản thân họ và dễ dãi với người
khác. Còn khi họ không sống phải lẽ với Đức Chúa Trời, họ dễ dãi với bản thân họ
và nghiêm khắc với người khác".
b. Thứ hai, người (nam hay nữ) là kẻ rất yêu mến Hội Thánh. Bất kỳ
Hội Thánh nào chần chừ không lấy lòng yêu thương sửa sai tội lỗi sẽ không hề tấn
tới về mặt thuộc linh hay sự đổ ra của Thánh Linh Đức Chúa Trời.
c. Thứ ba, người (nam hay nữ) là kẻ đương diện với tội lỗi trong
chính đời sống của mình. Nhiều lần chúng ta chần chừ không quở trách ai đó vì cớ
sự giả hình của chính chúng ta (đối chiếu Mathiơ 7:3-5). Hãy cầu nguyện
đi! Hãy cầu xin Đức Chúa Trời trước hết hãy chỉ ra tội lỗi của quí vị!
B.
Bước #2. Một cuộc gặp phân nửa riêng tư (câu 16).
1. Nếu người anh em đó "không nghe lời" trong cuộc gặp
gỡ riêng tư với quí vị, Chúa Jêsus bảo quí vị phải trở lại với "một hai người
đi với ngươi". Ở đây Ngài trưng dẫn tính vô tư của luật pháp "hầu cứ lời
hai ba người làm chứng mà mọi việc được chắc chắn".
2. Mong rằng người anh em phạm tội kia sẽ nhìn thấy mối quan tâm của
nhóm đông người hơn và biết ăn năn.
3. Thêm nữa, "hai ba người làm chứng" quyết chắc hay
nhất trí với người đã đến gặp trước tiên. Họ sẽ chứng kiến sự quở trách thích đáng
theo Kinh Thánh và sự đáp ứng.
C.
Bước #3. Một cuộc gặp đông người (câu 17).
1. Chúa Jêsus bảo chúng ta rằng "nếu người không chịu
nghe các người đó" họ cần phải "cáo cùng Hội Thánh". Trong phạm
trù nầy, rõ ràng là "Hội Thánh" hay ekklesia có ý nói tới một
số đông các tín đồ.
2. Đây không phải là phần hành của một nhân viên Ban Trị Sự, mà là của cả
thân thể địa phương, dù ít hay nhiều người.
D.
Bước #3. Một sự loại trừ (câu 17).
1. Chúa Jêsus phán "lại nếu người không chịu nghe Hội Thánh" nếu người cứ
xu hướng về tội lỗi của mình, "thì hãy coi người như kẻ ngoại và kẻ
thâu thuế vậy". Trong lý trí của người Do thái về các môn đồ: "kẻ ngoại" là người dân
Ngoại chẳng có phần gì trong đời sống giao ước của dân sự Đức Chúa Trời. Cần phải
lẫn tránh họ. Đúng là điều tệ hại, "kẻ thâu thuế" là một người
Do thái phản bội lại dân tộc mình.
2. Chúng ta hãy quay sang I Côrinhtô 5:1-13. Ở đây Phaolô
bảo người Côrinhtô "một người như thế phải phó cho quỉ
Sa tan, để hủy hoại phần xác thịt".
3. Các tín đồ không chịu ăn năn không còn thưởng thức mối tương giao, sự
khích lệ hay sự bảo bọc của Hội Thánh nữa.
4. Trong I Timôthê 1:20, Phaolô nói tới "Hy-mê-nê
và A-léc-xan-đơ, ta đã phó cho quỉ Sa-tan rồi, hầu cho họ học biết đừng phạm thượng
nữa".
5. Nếu người thực sự là con cái của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời sẽ
không quên người đâu. Giống như người con trai hoang đàng, người sẽ quay trở về
nhà khi người đau bịnh vì cớ sự bẩn thỉu của chuồng heo.
6. Trách nhiệm của chúng ta là cứ giữ sự cầu nguyện, cứ tìm kiếm những cơ
hội để quở trách người. II Têsalônica 3:14-15 bảo chúng ta chớ "…giao
thông với họ, hầu cho họ nhân đó biết xấu hổ. Tuy vậy, chớ coi người đó như kẻ
nghịch thù, nhưng hãy răn bảo người như anh em vậy".
7. Quá ít Hội Thánh quan tâm đến kỷ luật và họ thường không làm theo phương
án nầy của Kinh Thánh.
Phải chăng quí vị đã đối mặt với một anh chị em bị kéo vào trong tội lỗi?
Có phải thế không? Sẽ ra sao nếu một sáng Chúa nhựt kia quí vị nhìn thấy một ngọn
lửa trong nhà thờ của quí vị? Chẳng lẽ quí vị không lập tức dập tắt nó sao? Tất
nhiên rồi. Nếu quí vị không thành công, quí vị sẽ không ngần ngại kêu cầu sự cứu
giúp. Nếu hai hay ba người khác không thể giúp đỡ cho quí vị, quí vị phải cáo
cho cả Hội Thánh biết. Tội lỗi không được xưng ra, không ai đối diện còn nguy
hiểm cho mối tương giao của chúng ta hơn cả bất kỳ một ngọn lửa nào khác nơi sự
dễ dãi của chúng ta.
III.
Kỷ luật theo Kinh Thánh là kỷ luật có uy quyền (các câu 18-20).
A.
Kỷ luật phản ảnh uy quyền của thiên đàng (câu 18).
1. Đã có nhiều sự lý giải sai các câu nầy. Thí dụ, Giáo hội Công giáo La
mã sử dụng chúng để dạy rằng giáo hội có thể tha thứ hay ngăn chận các tội lỗi.
Hơn nữa, các tín hữu khác sử dụng ý niệm "hai hay ba người" nhất trí trong
sự cầu nguyện để nói ra đủ loại yêu cầu từ Đức Chúa Trời, họ tin rằng Đức Chúa
Trời bị "buộc" phải trả lời cho sự cầu nguyện của họ. Tôi
có nghe nói sự dạy nầy cho rằng cuộc bầu cử ở Hội Thánh địa phương là gắn liền
với ý chỉ của thiên đàng.
2. Thắc mắc phát sinh: Thẩm quyền cho sự kỷ luật đặt ở chỗ nào? Trong Mathiơ
28:18, Chúa Jêsus dạy rõ ràng: "Hết cả quyền phép đã ban cho Ta". Chúa Jêsus có "hết thảy
quyền phép" và Ngài không giao uy quyền của Ngài cho bất kỳ ai
khác. Uy quyền chúng ta xưng nhận khi kỷ luật một tín hữu anh em nằm trong Lời
của Đức Chúa Trời.
3. Về mặt văn phạm, các mệnh đề "buộc ở trên trời" và "mở ở
trên trời" có thể thụ động cách thì tương lai hoàn thành và được
dịch chính xác hơn "bị buộc hay mở". Đức Chúa Trời
không chiếu theo ý chỉ của Hội Thánh song khi Hội Thánh nương vào uy quyền của
Ngôi Lời, hành động của Hội Thánh đã được thiên đàng đồng ý rồi.
4. Một lần nữa chúng ta sẽ thắc mắc: "Chúng ta là ai mà
dám đương diện với người khác? Chúng ta nhận lấy uy quyền ấy ở đâu". Chúng ta nhận
lấy uy quyền ấy từ Ngôi Lời thành văn.
Hãy tưởng tượng một Cơ đốc nhân muốn để vợ mình rồi lấy một phụ nữ Cơ đốc
mà với người nữ nầy Cơ đốc nhân đó có một mối quan hệ tà dâm. Hai trong số họ
phải cầu nguyện rồi "buộc" thiên đàng bằng cách cầu
xin Đức Chúa Trời cho phép họ ly dị và cho phép họ lấy nhau. Có phải điều nầy sẽ
tôn cao lời cầu xin của họ và chúc phước cho mối quan hệ của họ không? Không,
không phải như thế đâu vì họ đã vi phạm uy quyền của Lời Ngài.
B.
Kỷ luật nương theo sự khẳng định của Đức Chúa Cha (các câu
19-20).
1. Nếu "hai người" (có ý nói tới các chứng
nhân trong câu 16), "thuận nhau [sumphoneo] ở dưới đất" về tội lỗi và
sự tinh sạch của Hội Thánh, "thì Cha ta ở trên trời sẽ cho họ". Đức Chúa Trời
sẽ khẳng định mọi quyết định theo Kinh Thánh của họ.
2. Khi chúng ta nắm lấy phần việc theo Kinh Thánh khi đương diện với tội
lỗi, chúng ta không nắm lấy một mình đâu. Mặc dù câu 20 thường được rút ra khỏi
văn mạch, sự dạy cho thấy khi chúng ta theo Kinh Thánh hành động để bảo vệ sự
tinh sạch của mối tương giao, thậm chí khi "hai hay ba người" bước ra đương
diện và quở trách một người anh em phạm tội trong danh của Chúa Jêsus, Ngài "…ở giữa
họ". Ngài cùng đi với họ trong quá trình đó.
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét