MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Cơ đốc
nhân –
người
vô tình và người biết phó thác
Mathiơ 16:21-28
1. Chúng ta đang
sống trong thời buổi "Cơ đốc giáo tùy tiện". Mới đây tôi có
nghe ai đó nói rằng Hội thánh trung bình có thể giảm bớt ¼ vai trò thuộc viên
và Hội thánh cũng như các thuộc viên cũng không thấy giảm bớt điều chi khác biệt.
2. Cơ đốc nhân
tùy tiện là những người muốn được kể ở trong Bầy, nhưng ít quan
tâm tới việc đi theo Người Chăn. Họ muốn sự tha
thứ mà thập tự giá của Đấng Christ mang lại, song không muốn vác lấy thập tự
giá của chính họ. Họ muốn những giây phút nồng ấm vào các buổi sáng Chúa nhựt,
song không dâng một sự phó thác nào cho Chúa Jêsus vào các buổi sáng thứ hai.
Nói ngắn gọn, họ muốn mão triều thiên mà không có thập tự giá kìa. Nhân vật có
quyền lực nhất trong đất nước chúng ta được thấy đều đặn bước ra khỏi nhà thờ với
quyển Kinh Thánh trên tay, nhưng lại bị buộc tội nói dối trước lời thệ hứa về một
mối quan hệ tà dâm.
3. Nhãn hiệu Cơ đốc
giáo mà Chúa Jêsus nói tới trong các sách Tin Lành là một tiếng kêu gào xa xôi
từ những gì chúng ta thấy trên các đường phố, trong những nhà thờ hay thậm chí
trong văn phòng kiểu oval kia nữa. Cung cách Cơ đốc giáo duy nhứt trong Kinh
Thánh là Cơ đốc giáo hoàn toàn, từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa Jêsus.
4. Từ phân đoạn
Kinh Thánh của chúng ta, chúng ta hãy xét qua ba đặc điểm của một Cơ đốc nhân
biết đầu phục.
I. Những
Cơ đốc nhân biết phó thác tiếp nhận ý muốn của Chúa Jêsus (các câu 21-23).
A. Chúa
Jêsus đã hành động theo chương trình của Đức Chúa Cha (câu21).
1. Một trong những
câu nói rõ ràng nhất về chính mình Ngài nằm ở Giăng 4:34: "Đồ
ăn của ta tức là làm theo ý muốn của Đấng sai ta đến, và làm trọn công việc
Ngài". Ở đây chúng ta thấy câu nói ấy được thốt ra.
2. Sau khi Chúa Jêsus
khẳng định lai lịch của Ngài là "Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời
hằng sống" và đưa ra câu nói có tính cách tuyên bố về thân thể
đời đời của Ngài, là "Hội thánh", Ngài cấm các
môn đồ "đừng nói cho ai biết" Ngài là Đấng
Mêsi.
3. Câu 21 cho
chúng ta biết rằng "từ đó" Ngài mới tỏ ra
nhiều về chính mình Ngài theo cách riêng cho họ hơn là công khai trước các đám
dân đông.
4. Chúa Jêsus đã
tập trung vào chương trình của Đức Chúa Cha. Ngài "mới
tỏ cho môn đồ biết rằng mình phải…". Hãy lưu ý chữ
"phải". Đức Chúa Trời không có một
chương trình phụ.
5. Thứ nhứt, Chúa
Jêsus đã tỏ ra rằng "Ngài phải đi đến thành Jerusalem ".
a. Câu 13 cho
chúng ta biết rằng họ đã ở tại thành "Sêsarê
Philíp" ở biên giới phía Bắc của xứ Israel . Họ đã được đôi chút an toàn
đối với các kẻ thù của họ tại đây.
b. Có lẽ các môn đồ
đã sợ xuôi Nam ,
không nghi ngờ chi nữa ở đó họ sẽ đối mặt với cơn thạnh nộ của các cấp lãnh đạo
tôn giáo. Ở một chỗ kia, Thôma đã nói: "Chúng ta cũng
hãy đi tới đó đặng chết với Ngài!" (Giăng 11:16). Họ tưởng Chúa Jêsus
bị điên khi quay trở lại chính nơi rất nguy hiểm cho Ngài.
c. Tại thành "Jerusalem " là chính địa điểm
mà Ápraham đã dâng Ysác con mình làm của lễ thiêu, ở đây vị tộc trưởng đã nói: "Chính
Đức Chúa Trời sẽ sắm sẵn lấy chiên con" (Sáng thế ký 22:8).
d. Chúa Jêsus lên
thành Jerusalem
vì đấy là địa điểm đã được chỉ định theo cách thiêng liêng để dâng của lễ. Ngài
phán trong Luca 13:33: "… vì không có lẽ một đấng tiên tri
phải chết ngoài thành Giê-ru-sa-lem".
6. Thứ hai, Chúa Jêsus
cũng tỏ ra rằng "Ngài phải… chịu nhiều sự khốn khó" từ tay các cấp
lãnh đạo tôn giáo.
a. "Những
người trưởng lão" có lẽ là các đại biểu đến từ
các chi phái khác nhau. "Các thầy tế lễ cả" chủ yếu là người
Sađusê. "Các thầy thông giáo" hầu hết thường
là những người Pharisi, họ chuyên xu hướng theo truyền thống.
b. Mỗi một nhóm
hay kình chống nhau như thế nầy đã gắn bó với nhau trong thái độ thù hằn và ao ước
được giết Chúa Jêsus.
7. Thứ ba, Chúa Jêsus
đã tỏ ra rằng "Ngài phải…bị giết". Từ ngữ Hy lạp
nói đến "bị giết" không có ý nói tới
sự hành hình của chính quyền mà là giết người.
8. Thứ tư, Chúa Jêsus
đã tỏ ra rằng "Ngài phải… sống lại vào ngày thứ ba". Sau khi nghe Thầy
của họ sẽ phải chịu khổ và chịu chết, thế rồi họ đã quên phứt đi phần cuối
cùng. Họ đã nhìn thấy Chúa Jêsus làm cho con gái của Giairu sống lại, cũng như đứa
con trai của bà goá ở Nain, thế mà họ đã kinh ngạc không biết ai sẽ làm cho
Chúa Jêsus sống lại nếu Ngài phải chịu chết đi?
B. Phierơ
đã nói theo sự phỏng đoán của
riêng mình (câu 22).
1. Phierơ "bèn
đem Ngài riêng ra mà can rằng". Quí vị có thể hình dung ra
bối cảnh ấy trong trí mình không?
2. Phierơ từng bị
tai tiếng vì sự hấp tấp của mình rồi. Tuy nhiên, chúng ta có thể được yên ủi trước
sự thực là Phierơ đã có một sự mật thiết với Chúa để nói với Ngài giống như một
người bạn thân vậy.
3. Phierơ là một
mục tiêu quá dễ dàng. Chúng ta mau mắn xét đoán mọi hành động của ông. Thế mà
chúng ta lại thường hành động với sự phỏng đoán về ý muốn của Đức Chúa Trời? Thể
nào chúng ta thường kêu lên: "Không công bằng đâu, lạy
Chúa" hay "Lạy Chúa, sao lại là tôi?"
4. "Quở" mang nghĩa rộng
của một lịnh lạc từ cấp trên. Phierơ đã nói với giọng điệu của bậc cha mẹ nói với
con cái loạn nghịch. Động từ nguyên thể thì hiện tại cho thấy ông đã lặp lại
câu nói đó.
5. Phierơ nói: "Còn
lâu mới có sự đó" hoặc "Đức Chúa Trời ngăn cấm!" Ông nói: "Sự
đó sẽ không xảy đến cho Chúa đâu!" Phierơ không nghĩ rằng Đấng
mà ông đã tuyên bố là "Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng
sống" sẽ bị ngược đãi và bị giết bởi các cấp lãnh đạo tôn giáo.
6. Thay vì phục
theo chương trình đời đời của Đức Chúa Trời, phỏng chừng của Phierơ rất giống với
các Cơ đốc nhân tùy tiện thời nay. Chúng ta muốn mão triều thiên chớ không muốn
thập tự giá của Ngài.
C. Chúng
ta có thể dễ dàng góp phần vào mục đích của kẻ thù (câu 23).
1. Trong khi ở
ngoài mặt, nhìn kỹ hơn thì mối lo của Phierơ dường như hợp lý và dễ thương.
Phierơ và 12 sứ đồ hoàn toàn nương vào Chúa Jêsus trong mọi sự. Họ đã hỏi: "Lẽ
nào đây là ý chỉ của Đức Chúa Trời sao?" Thay vì thế, họ đang hỏi: "Nếu
Chúa Jêsus chết, thì điều chi sẽ xảy ra cho chúng ta?"
2. Tình cờ Phierơ
đã đùa giỡn trong bàn tay của Satan. Chúa Jêsus đã "xây
mặt lại" cùng ông. Hãy tưởng tượng
cái nhìn trong ánh mắt của Cứu Chúa xem! Có thể cái nhìn ấy đượm chính nét sắc
sảo luôn luôn có trong ánh mắt của những kẻ hay chế giễu đền thờ. Ngài phán: “Hãy
lui ra đàng sau ta!"
3. Không một điều
gì làm cho Phierơ rúng động hơn thế. Chúa Jêsus đã cáo ông về việc hành động y
như Satan vậy. Luca 4:8 ghi lại rằng Chúa Jêsus đã phán ra cùng một việc ấy với
Vua của sự tối tăm trong khi chịu cám dỗ: "Đức Chúa
Jêsus bèn phán cùng nó rằng: Hỡi quỉ Sa-tan, ngươi hãy lui ra! Vì có lời chép rằng:
Ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc một mình
Ngài mà thôi".
4. Chúa Jêsus vốn
biết rõ Satan đã đặt điều nầy trong Phierơ. Ở câu 17, Chúa Jêsus phán rằng
Phierơ đã nói ra những gì “Đức Chúa Cha” đã “tỏ ra” cho ông biết,
còn câu 23 người đánh cá to con kia đã trở thành phát ngôn viên của địa ngục.
Satan phải làm một điều gì đó để giữ Chúa Jêsus đừng lên thập tự giá.
5. Chúng ta dễ bị
bịp làm sao! Chúa Jêsus phán: "Ngươi làm gương xấu cho ta". Quí vị có thể tưởng
tượng xem có gì tệ hại hơn nữa không? "Gương xấu" rút ra từ chữ skandalon, có nghĩa là "một
cái bẫy hay một vầng đá vấp chơn". Chúng ta có từng làm ngăn
trở chương trình của Đức Chúa Trời không?
6. Thể nào chúng
ta thường cẩn thận thốt ra những lời lẽ tiểu xảo của kẻ thù chúng ta khi hắn
thì thầm nhỏ nhẹ bên tai của chúng ta? Thể nào chúng ta thường nghĩ tới việc
làm lành nhưng lại làm điều ác? Thể nào chúng ta thường tìm cách chữa lành,
thay vì thế lại làm cho thương tích?
7. Có một manh mối
cho chúng ta trong câu nói nầy: "vì ngươi chẳng
nghĩ đến việc Đức Chúa Trời, song nghĩ đến việc người ta". Bao lâu tiêu điểm
của chúng ta đặt nơi "việc người ta", chúng ta sẽ
không bao giờ làm theo ý chỉ của Đức Chúa Trời đâu.
8. Chúng ta phải
tránh không làm quân cờ cho địa ngục bằng cách nào? Chúng ta hãy tiếp thu từ Côlôse
3:1-17.
II. Những Cơ đốc
nhân biết phó thác đối diện với những đòi hỏi của Chúa Jêsus (các câu
24-26).
A. Chúa
Jêsus đòi hỏi ba hành động (câu 24).
1. Thứ nhứt, một
Cơ đốc nhân biết phó thác phải "liều mình".
a. "Liều" ra từ chữ có ý
nghĩa là chối bỏ hoàn toàn, phân rẽ hoàn toàn. Chúa Jêsus đã sử dụng chính từ ấy
trong Mathiơ 26:34 để nói trước cho Phierơ biết sự Phierơ chối Chúa: "Quả
thật, ta nói cùng ngươi, chính đêm nay, trước khi gà gáy, ngươi sẽ chối ta ba lần".
b. Một Cơ đốc
nhân biết phó thác phải "chối bỏ" bản ngã cũ. Chúa
Jêsus không có ý nói tới lai lịch riêng tư của chúng ta đâu, mà Ngài nói tới phương
thức sống cũ, nó tội lỗi và loạn nghịch. Phaolô đã nói trong Rôma 7:18: "Vả,
tôi biết điều lành chẳng ở trong tôi đâu".
c. Mặc dù chúng
ta đã được xưng công bình bởi ân điển của Đức Chúa Trời, chúng ta vẫn phải chối
mỗi ngày và liên tục từ bỏ phương thức sống cũ.
d. Rôma 13:14
chép: "nhưng hãy mặc lấy Đức Chúa Jêsus
Christ, chớ chăm nom về xác thịt mà làm cho phỉ lòng dục nó". Philíp
3.3 chép: "Vì, ấy chính chúng ta là kẻ chịu phép cắt bì thật, là kẻ
cậy Đức Thánh Linh Đức Chúa Trời mà hầu việc Đức Chúa Trời, khoe mình trong Đấng
Christ, và không để lòng tin cậy trong xác thịt bao giờ”.
2. Thứ hai, một Cơ
đốc nhân biết đầu phục phải "vác thập tự giá".
a. Đối với một
tín đồ "vác thập tự giá" không có ý nói tới một sự
khó nhọc hay thử thách thông thường nào đó. Hỡi quí bạn, mẹ vợ của quí vị không
phải là “cây thập tự” mà quí vị phải vác lấy đâu!
b. Thay vì thế,
câu nầy có ý nói tới sự chúng ta bằng lòng nhịn nhục bất cứ sự bắt bớ nào hay
trả bất cứ giá nào thậm chí cả tuận đạo vì Chúa Jêsus nữa.
John MacArthur viết:
…thập tự giá là một thực tại rất cụ thể và sống động. Đây là công
cụ hành quyết dành để cho các kẻ thù tệ hại nhất của La mã. Đây là biểu tượng của
đau khổ và chết chóc đã chờ đợi những ai dám đưa bàn tay lên nghịch cùng nhà cầm
quyền La mã. Không lâu lắm trước khi Chúa Jêsus và các môn đồ đến tại thành
Sêsarê Philíp, 100 người đã bị đóng đinh trên thập tự giá trong khu vực. Một thế
kỷ trước, Alexander Janneus đã cho đóng đinh trên thập tự giá 800 người Do thái
nổi loạn tại thành Jerusalem, và sau cuộc nổi loạn tiếp theo sau cái chết của
Hêrốt Đại Đế, 2.000 người Do thái đã bị đóng đinh trên thập tự giá bởi Thống đốc
La mã Varus. Những lần đóng đinh trên thập tự giá ở cấp độ nhỏ đều rất bình thường,
và nó được đánh giá có lẽ khoảng 30.000 lần dưới nhà cầm quyền La mã trong suốt
cuộc đời của Đấng Christ.
c. Các môn đồ đều
hiểu vác thập tự giá của một người là bắt đầu một cuộc diễu hành đến với cái chết.
Không phải mỗi một môn đồ đều phải phó sự sống mình cho Đấng Christ, mà mỗi một
môn đồ phải bằng lòng phó mọi sự cho Chúa Jêsus.
d. Khả năng vác lấy
thập tự giá của chúng ta bắt rễ từ lời hứa long trọng của Chúa Jêsus rằng "cửa
âm phủ" sẽ không "thắng" được chúng ta. Chúng ta có
sự đắc thắng đối với sự chết!
e. Chúa Jêsus
không vác lấy thập tự giá của Ngài lên Via Dolorosa trừ khi Ngài lìa
bỏ thiên đàng. Quí vị có vác thập tự giá của mình chưa? Quí vị có chịu chết vì
Ngài không? Quí vị có chịu sống cho Ngài không?
3. Thứ ba, một Cơ
đốc nhân biết phó thác phải "theo Chúa Jêsus". I Giăng 2:6
chép: "Ai nói mình ở trong Ngài, thì cũng
phải làm theo như chính Ngài đã làm". Chúa Jêsus đã phán trong
Giăng 12:26: "Nếu ai hầu việc ta, thì phải theo ta, và ta ở đâu, thì
kẻ hầu việc ta cũng sẽ ở đó; nếu ai hầu việc ta, thì Cha ta ắt tôn quí người....".
B. Đòi
hỏi của Chúa Jêsus là một sự nghịch lý rất lớn (các câu 25-26).
1. "Sự
sống" ở đây có ý nói tới bản ngã. "Vì ai" sống chỉ lo làm đẹp
lòng mình hay "cứu sự sống mình" bằng cách theo đuổi khoái lạc
và của cải sẽ "mất nó". Tuy nhiên, người nào bằng
lòng "mất" hay từ bỏ mọi sự,
thậm chí cả mạng sống sẽ "được lại" sự sống đời đời.
2. Hãy tưởng tượng
xem nếu người kia có thể kiếm được "cả thế gian" và mọi sự giàu
có của nó. Hãy tưởng tượng xem nếu quí vị có thể có được mọi sự ngay lúc bây giờ,
song phải bỏ đi sự sống đời đời. Vậy thì linh hồn của quí vị giá bao nhiêu? Luca
16:19-31/Hêbơrơ 11:24-26.
3. Chúng ta không
bị buộc phải chối bỏ sự sống của mình để trở thành hạng Cơ đốc nhân biết đầu phục.
Chúng ta không biết. Chúng ta chỉ phải bằng lòng mà thôi.
III. Cơ đốc nhân đầu
phục biết trước các phần thưởng của
Chúa Jêsus (các câu 27-28).
A. Sự
đến của Chúa Jêsus là một lời hứa vinh hiển (câu 27a).
1. Chúng ta hãy
xem qua lời tiên tri ở Đaniên 7:9-14.
2. Sau khi bảo đảm
cho các môn đồ quả thực Ngài là "Con của Đức Chúa Trời hằng sống", sau khi nói cho
họ biết rằng Ngài sẽ "bị giết và sẽ sống lại" Ngài quyết chắc
với họ rằng quả thực họ sẽ nhìn thấy mọi điều mà họ hằng ao ước, phải, thậm chí
còn hơn cả ao ước nữa. Họ sẽ nhìn thấy Ngài "ngự trong sự
vinh hiển của Cha mình mà giáng xuống cùng các thiên sứ".
3. Sự việc kỳ diệu
nói tới Đấng Christ, Hội thánh Ngài, Tin Lành và Sự Đến của Ngài hết thảy đều
có trong phân đoạn ngắn ngủi nầy!
B. Sự
đến của Chúa Jêsus là một lời cảnh cáo nghiêm trọng (câu 27b).
Chúa
Jêsus phán: "Ngài sẽ thưởng cho từng người, tùy việc họ làm". Người được cứu sẽ
đối mặt với Ngai Phán Xét của Đấng Christ và người chưa được cứu sẽ đối mặt với
Ngai Trắng Phán Xét.
C. Sự
đến của Chúa Jêsus gồm một lời tiên tri có hai phần (câu 28).
1. Câu nầy đã gây
rắc rối cho một số học viên Kinh Thánh vì Chúa Jêsus đã hứa rằng "có
một vài kẻ" trong số các môn đồ sẽ không "nếm
sự chết" hoặc chết cho tới chừng họ nhìn thấy "Con
Người ngự đến trong Nước Ngài". Vì các môn đồ nguyên thủy đã
chết trong khoảng 2.000 năm và vì Sự Tái Lâm chưa diễn ra, một số người cho rằng
Chúa Jêsus vừa sai lầm lại vừa nói dối nữa.
2. Dù vậy, thật
là quan trọng khi thấy rằng nhiều lời tiên tri trong Kinh Thánh đã có sự ứng
nghiệm từng phần và một sự ứng nghiệm toàn phần. Thí dụ Phierơ có đề cập tới một
lời tiên tri từ sách Giôên trong bài giảng của ông nhơn dịp Lễ Ngũ Tuần ở Công
Vụ các Sứ Đồ 2:14-21. Lễ Ngũ Tuần là một sự ứng nghiệm từng phần, không
phải hết thảy các sự cố trong lời tiên tri đó sẽ được ứng nghiệm toàn phần cho
tới khi Sự Tái lâm đến.
3. Từ ngữ "Nước" ở đây ra từ chữ
basilea, có nghĩa đen dịch là "vương
giả" hay "oai nghi". Nói cách khác, chúng ta hiểu
chữ nầy có ý nói rằng họ sẽ nhìn thấy Con Người trong sự vương giả hay nét oai
nghi của Ngài là Con của Đức Chúa Trời.
4. Nếu quí vị đã
xem trước chương 17, quí vị biết chính xác tôi muốn nói gì rồi. Chỉ có "sáu
ngày" sau đó Chúa Jêsus đã đem theo vòng trong cùng gồm Phierơ, Giacơ và Giăng
("một vài kẻ") rồi cho phép họ nhìn thấy "Con
Người" ngự trong "sự vinh hiển của Cha Ngài" trên ngọn núi hoá
hình.
5. Sự hoá hình là
một sự ứng nghiệm từng phần, nhưng hết thảy chúng ta sẽ nhìn thấy Ngài ngự
trong sự vinh hiển của Ngài.
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét